Một vệt đường ngoằn ngoèo bò lên dốc, quanh co uốn khúc, đoạn lộ ra sát mép riềm núi, đoạn bị che khuất vì cây rừng. Đến chót cùng, vệt chì trắng ấy vọt cao nhạt nhòa trong mầu xanh sẫm của cánh rừng, đội trên đỉnh chóp những vòm mây nhẹ xốp, trắng lóa dưới nắng mặt trời. Người leo núi vẫn mặc nguyên áo bông, quần bông, mũ lông mà không nhỏ một giọt mồ hôi. Khí núi đã khác xa dưới mặt đất. Lạnh và ẩm đến khó thở, tưởng như nếu dừng lại thì chân không thể bước tiếp được nữa.
Họ có hai người. Từ sớm tinh mơ đã khởi hành. Đường được xe ủi mỏ thoai thoải một đoạn ở cửa rừng khiến người đi cảm thấy hăng hái, và nhìn lên ước lượng, cũng có thể không xa lắm. Nhưng lọt vào giữa rừng cây rồi thì từ đó chỉ còn bước một leo lên, theo dấu chân những người đã đi trước. Từng bực, từng bực uốn khúc bám cây rừng, chống gậy, leo trên những tảng đá hoặc rễ cây kết thành mảng vừa đủ đặt chân người. Người đi trước vài bước đã như đứng trên vai người đi sau. Con đường tự tạo của những tổ địa chất đi tìm mỏ sắt đã cả chục năm nay. Vậy mà họ không chỉ đi tay không, nào choòng, nào búa, nào bình toong nước, nào gạo, nào muối, thực phẩm khô và những mẫu quặng.
Chẳng ai phải dặn ai, rồi người nào khi đến những đoạn thoáng cây rừng cũng đều ngồi phịch xuống thở như thể ông Trời đã sắp đặt trước, một mảng đất bằng mở cửa sổ lên trời sáng trong, với những phiến đá tảng rộng như chiếu nghỉ và những hõm đá chứa đầy nước trong vắt. Không biết đã từ bao giờ, người nọ truyền miệng người kia, những đoạn này được có tên gọi rất thân thương. Đó là những nhà ga cho "đoàn tàu" dừng bánh - ga Hàm Rồng, ga Nam Định, ga Phủ Lý... tên quê hương của những người địa chất. Có một ga mang tên Phú Thọ, đó là đoạn đường mà đến đây người khỏe nhất cũng đã phải bước dẹo dọ. Hà Nội là ga cuối cùng của điểm đến. ở đó đang có những tổ địa chất sống và làm việc quanh năm trong mây mù. Đoàn địa chất gồm nhiều tổ. Họ có mặt rải rác ra các đỉnh núi Hạ Vinh, Thượng Vinh, Lũng Khòe... nếu muốn đến phải bám dây rừng vượt qua những vách núi thẳng đứng, mới gặp được nhau. Công việc của tổ địa chất là lần theo bản đồ đã được thăm dò, tìm những vỉa quặng sắt, đào giếng, lấy mẫu, gùi xuống núi gửi đi phân tích để xác định trữ lượng quặng và các thông số kỹ thuật khác. Có những người đã sống trong mây từ năm này qua năm khác không về thăm gia đình được, dù họ cũng có mười ngày phép như mọi lao động khác. Có người đến phiên được nghỉ thì gặp công tác đột xuất, không đi được. Có người xuống núi một ngày, đi bộ hai ngày đường nữa mới đến nơi có ô-tô khách đi qua. Nhưng thường là phải chờ ngày qua ngày vì xe không đỗ do đã quá chật khách, cuối cùng người công nhân lại đi bộ về và leo núi. Hết mười ngày phép!
Lúc này hai người đã như đi trên đỉnh các ngọn cây vươn lên từ các khe núi bồng bềnh mây trắng. Con đường đến đoạn thoai thoải dễ đi, ôm theo riềm núi đá, không còn phải leo trèo nữa nên người cảm thấy dễ chịu. Trong hai người, một là phụ nữ. Chị luôn luôn tụt lại phía sau, khác hẳn đoạn vừa phải trèo leo vất vả, chị được đi trước. Người đi cùng cần lựa sức của chị trên những đoạn đường khó nhọc nhất. Bây giờ chị mới nói được:
- Đến cái ga gì ấy, tôi cứ tưởng phải ngồi lại thôi. Nhìn xuống thì mặt đất đã xa lắc, mà nhìn lên chỉ những mây mù trắng xóa. Tim đập loạn xạ đến nghẹt thở. Tôi mà biết trước thế này, có khi không dám theo anh.
Anh bạn đi cùng bật cười khẽ:
- Chị nói được rồi, thế là tôi yên tâm. Từ đây đến ga Hà Nội, con đường chỉ thoai thoải thế này thôi.
Tay chị vuốt trên vách núi phủ những lớp rêu đầy xanh mướt như nhung, mát nhẹ cả người. Những cụm hoa lá đang cuốn hút chị bởi vẻ đẹp vô cùng khác thường, lá mà cũng như hoa, đan xen mầu sắc.
- Mang những cây này về dưới xuôi trồng, nó còn đẹp như thế này nữa không? Ô, nhiều hoa quá. Phong lan, đúng phong lan đây rồi. Thơm ngan ngát. Mây thơm hay hoa thơm vậy? Bao nhiêu là mầu, là dáng vẻ.
Quên hết mọi nhọc nhằn vừa vượt qua một ngày đường, chị bò lên sát một vòm hoa. Sắc hoa thật lạ, cánh tím hồng mầu như lụa, ấp ủ nhụy vàng non tơ và giữa đài hoa mầu đỏ rực rỡ tỏa sáng ấm áp. Chị không dám hát. Cây cỏ hoa lá ướp trong hơi lạnh của mây, của sương, mọng mỡ rung rinh. Tất cả như đang dắt chị vào cõi Thần Tiên khiến chị tưởng như nếu mình làm một việc gì gây đau cho cây cỏ, thì mọi vật sẽ tan biến mất. Chị quên hết những ý định của mình về chuyến đi này. Tốt nghiệp ngành địa chất, chị xin đi thực tế và chị được gửi đến Tòng Bá. Hôm nay đi theo một cán bộ của đoàn khảo sát. Để biết công việc của người địa chất là thế nào.
Anh cán bộ rất ít nói. Anh lặng lẽ đứng chờ chị.
- Mấy giờ rồi nhỉ? Còn phải đi bao lâu nữa mới đến tổ đầu tiên, à đến ga Hà Nội chứ? Mỗi tháng anh phải leo lên đây mấy lần. Lúc về anh có lấy những chùm hoa này không, để treo xung quanh nơi ở ấy.
Anh mỉm cười, không đáp.
Chị vụt reo:
- Sao lại có một đàn gà như gà ta vậy. Bí ngô nữa kìa. Ai trồng mà ngọn mập quá. Lại có cả một bàn bóng bàn. Nhưng mây phủ ướt mặt bàn thế kia, bóng nảy sao được. Nếu bóng rớt xuống hẻm núi, đi nhặt thế nào?
- Ta đã đến ga Hà Nội.
Giọng anh trầm trầm, vang rất xa, như tiếng của núi rừng vọng đến. Chị đứng sững ngơ ngác. Lúc này mới kịp nhận ra có một mái nhà lợp cỏ, núp dưới lùm cây. Rồi nhìn dần ra cảnh vật xung quanh. Những máng nước làm bằng tre vầu dong duổi đặt dài trên những giá đỡ. Một luống nhỏ rau cải. Và có một sân đất nện xinh xinh. Quanh quất vắng lặng. Tiếng chim khảm khắc và bóng tối như ụp xuống.
- Vào nhà đi thôi, chị.
Giữa nhà, một bếp củi gộc rực đỏ than hồng. Lủng lẳng trên bếp ba sợi xích sắt đeo một cái nồi nhôm rất to. Chị chưa kịp hỏi thì đã nghe láo nháo tiếng người, tiếng bước chân và tiếng lịch kịch các vật nặng được vứt xuống hè nhà. Tiếng reo trong trẻo:
- à, chúng em đoán không sai, hôm nay thế nào anh cũng lên.
- Anh Ngọc, quà của chúng em đâu?
Lúc này chị mới sực nhớ tên anh là Ngọc. Từ lúc chuẩn bị lên đường họ mới gặp nhau. Và suốt cả một ngày, quá mệt nhọc, quá nhiều bất ngờ, chị chỉ kịp nhận xét anh là người ít nói và rất chu đáo.
Tổ địa chất ở đây có bảy người. Trẻ măng. Họ vây quanh anh như đàn em nhỏ, người lục túi, người níu vai anh ngồi xuống, người dúi thêm củi cho lửa bùng lên. Còn anh, thong thả mở túi dết:
- Chỉ có báo thôi, không có thư.
Không khí như bặt lặng xuống.
- Kìa, các cậu vô ý quá. Nhà có khách. Chị Kim.
- Ô, bất ngờ. Quà quý thế mà anh không nói ngay.
Đám trẻ xô đến chị, bắt tay:
- Chị là người phụ nữ đầu tiên đặt chân lên đỉnh núi này.
- Vào đến nhà là chúng em chỉ nhăm nhăm nhìn vào cái nồi kia thôi. - Chị đừng giận.
Tiếng cười bật vang lên.
- Hạ liếp xuống cho ấm nhà, các cậu. Dọn ăn thôi.
Lúc này chị mới biết, trời đã rét buốt. Chị ngồi sát vào mép lửa. Té ra chủ lực của bữa ăn chính là cái nồi đeo lủng lẳng kia. Một nồi hạt đậu nành hầm. Cơm và muối.
- Có khách, thủ kho xuất vài con cá khô nhá.
Con cá bằng hai ngón tay, chỉ mới đặt ở mép củi đã oằn lên. Nhưng mùi thơm thì quả là hấp dẫn. Mỗi người được nhắm nửa con. Tiêu chuẩn khi nhà có "thượng khách".
Chị chẳng biết nói gì và cũng không biết hỏi gì. Bởi cái nồi đậu hầm kia, suốt ngày đêm treo trên than lò, sôi âm ỉ, vậy mà khi ăn hạt đậu vẫn còn sượng. Bởi gùi được con cá khô lên đây, phải dành khi có "tiệc tùng" mà đó chỉ là con cá tép. Vậy mà họ vẫn cười nói râm ran với anh Ngọc, dù anh Ngọc chỉ thỉnh thoảng mới thủng thẳng đáp lời.
- ở trên này các anh không được cấp một cái đài chạy pin để nghe tin tức hằng ngày ư?
Chị buột nghĩ ra một điều cho là rất hệ trọng. Tất cả lại cười vang.
- Đây, nó đây. Nhưng chỉ ở một ngày thôi là tịt. Khí trời ẩm ướt quá mức chịu đựng của nó. Biết thế chẳng gùi lên cho nặng.
- Nhưng chúng em có cái này. Tuyệt diệu. Đem nó ra đây các cậu.
Chị tròn mắt. Một cây đàn? Không hẳn. Đàn gì vậy? Không thể gọi tên. Cũng hộp gỗ, cũng có cần và cũng đủ bốn sợi dây.
- Nổi nhạc lên. Đàn tự tạo của chúng em đấy.
Họ cùng cất tiếng hát, cùng vỗ tay làm nhịp. Và tiếng đàn. Ôi, tiếng đàn trầm bổng, thiết tha, vang âm như từ cõi xa xăm nào vọng tới. Chị ngồi lặng. Như đang bay... Và những chú hài đồng rước đuốc, ngọn lửa nhảy nhót...
Tiếng anh Ngọc trầm trầm:
- Chị Kim đi một ngày đường mệt rồi. Các cậu xếp chỗ để chị nghỉ. Mai chị còn sang cả Lũng Khòe.
Mặc nguyên quần áo bông, quấn cả chiếc chăn bông, mà chị không sao chợp mắt được. Rét. Rét tỉnh người. Quanh quất vô cùng vắng lặng. Vậy mà mọi người đã ngon giấc. Chị đành tự nhủ. Phải quen với cảnh sống này. Nhưng lập tức một ý nghĩ khác ập đến. Lúc mình chọn nghề địa chất là sau khi đi xem bảo tàng, các mẫu đất đá cuốn hút mình. Những viễn cảnh đầy bí ẩn trong lòng đất, và mình sẽ là người khám phá. Người khám phá. Tuyệt diệu làm sao, khi là người khám phá. Cha mẹ chị đã từng nói trước nhiều điều, về những nỗi gian truân của nghề địa chất - vì thế chị càng quyết chọn. Nhưng cũng không ngờ. Chuyến đi lộ trình hôm nay. Và ngày mai, còn phải bám vách núi mới vượt sang được với tổ bên kia. Hừ, đi đâu cũng dám tất. Đã có anh Ngọc. Tất nhiên anh không để mình rơi từ vách núi xuống vực sâu. Chị chợt nở nụ cười. Đến như diễn viên xiếc là cùng. Chị mở choàng mắt. Đã sáng rồi? Qua khe liếp, ánh sáng trong vắt lọt vào. Chị đưa cánh tay đeo đồng hồ đến chỗ ánh sáng với một thích thú rất trẻ con. Mình là người dậy sớm nhất nhà. Con gái, phải thức khuya dậy sớm, nếu không chỉ có "chống ề". Mẹ vẫn chế Kim như vậy, mỗi khi đánh thức mà Kim còn oằn oài. Kim thích nũng nịu: "Thời nay khác xưa rồi mẹ ơi. Thế thì con càng được ở với bố mẹ đến già". Già là thế nào? Chị bật cười một mình. Không bao giờ mình chịu già nhá. Chị ngồi nhỏm dậy. Mới hai giờ sáng. Tuổi trẻ xá gì giờ giấc. Chị tung chăn, rón rén lách qua khe liếp đi ra sân. Ôi, một vầng trăng tròn vành vạnh đang nhìn xuống chị, đúng giữa khoảng trời thoáng cây rừng. ở cao trên một nghìn mét so với mặt biển, dường như trăng gần với mình hơn, nhìn rất rõ chú cuội và cây đa. Hôm nay phải là mười sáu ta, trăng mới thật tròn như vậy, mẹ vẫn bảo thế. Đi ra sát mép nước lần, chị thò tay vào máng. Dòng nước đã đóng băng thật. Đến bàn bóng ping-poong, chị xoa tay, mặt bàn lạo xạo vụn đá. Chị ngửng nhìn trời. Trời trong vắt không một gợn mây. Và mặt trăng, đẹp kỳ lạ. Mặc cho đôi chân đã lạnh cứng, chị vẫn đứng đấy nhìn trời.
Một tiếng động nhẹ khiến chị quay phắt đầu lại, người bừng nóng lên vì sợ hãi. ở rừng sâu, thường có hổ. Khi tối chị có để ý thấy trên tường nhà treo những khẩu súng. Họ có phân công người trực đêm nay. Chị quá chủ quan, khi một mình ra đứng ở đây.
- Rét không độ về đêm, chị đứng lâu ngoài trời không quen, dễ cảm lạnh đấy. Trăng càng sáng, đêm càng rét.
Tiếng anh Ngọc thật ấm áp, như một che chở, như một nương tựa. Chị lẳng lặng đi vào, ngồi sát bếp than. Mình chẳng có kinh nghiệm gì trong cuộc sống. Mình chẳng hơn gì một đứa trẻ con. Chỉ tưởng tượng vớ vẩn là giỏi. Cuộc sống lao động đầy vất vả, đâu có giống như mình nghĩ.
ánh trăng vẫn lọt qua khe liếp những vệt sáng trắng, lúc một nhạt nhòa dần. Tổ địa chất gọi nhau thức dậy. Người vo gạo, thổi cơm. Người sắp xếp dụng cụ. Nước đã được chứa sẵn trong thùng để khỏi bị đóng băng. Một nồi đậu mới lại được móc lên bếp hầm làm thức ăn cho tối nay và sớm mai. Họ mang theo cơm nắm và muối. Lại bình toong nước, lại búa, lại choòng...
- Đường sang tổ 3 lắm vắt đấy. Chị Kim phải bó ghệt vào. Em cho chị mượn nhá.
- Quần áo chị phải thắt thật gọn mới leo trèo được.
- Tổ có phải phân công hai cậu đi hộ tống chị Kim không?
- Tốt nhất là chị ở nhà. Tổ bên ấy thì cũng như tổ chúng em. Chị chỉ cần đến giếng đào của chúng em là hiểu ngay công việc thăm dò thôi.
- Leo trèo qua vách núi không hợp với phụ nữ đâu. Lũ chúng em còn phải đổi sang họ Tôn mới tồn tại được ở đây lâu thế đấy.
Đoàn người lịch kịch leo qua hẻm núi. Họ đi như làm xiếc. Dao phát cầm tay, trèo leo vắt vẻo. Chiếc địa bàn đặt trên bản đồ trong tay anh Ngọc thật mẫn cảm. Cuối cùng đến địa điểm đào một giếng mới. Anh Ngọc hướng dẫn mọi việc cho tổ rồi chuẩn bị đi sang tổ 3.
- Chị Kim đi làm gì nữa, thêm mệt. Tổ nào chẳng thế.
- Chị ở lại với chúng em cho vui. Đã được nghe chuyện Hà Nội đâu.
Kim đáp:
- Hà Nội là đây rồi còn gì. Ga Hà Nội mà.
Kim đã nói đùa được. Mọi người cất tiếng cười ran. Thế là đủ hiểu, Kim dám dứt khoát. Chị đứng vụt dậy:
- Tối về, vừa ăn đậu hầm vừa nghe kể chuyện Hà Nội. Hà Nội trên núi này ấy. Thôi nào, anh Ngọc, tôi đi tiếp với anh là phải nhất.
- Đúng thế.
Lần đầu tiên chị gọi tên anh. Lần đầu tiên chị cảm nhận được ở anh một con người đầy tính quả cảm mà chị rất cần, nhất là trên những chặng đường còn vất vả hơn nhiều, luôn luôn gặp thử thách.
Quả nhiên, mãi lúc trời tối sập chị mới trở về được đến "nhà". Chị ngồi phịch xuống hàng hiên. Quần áo, giày mũ ướt hết. Không phải vì trời mưa mà vì quệt sương đọng ở các lá cây, các dây rừng, khi phải len lỏi leo trèo. Có con vắt chui vào trong ghệt, máu đỏ loang theo bắp chân, chị cũng mặc. Tưởng như các khớp xương đều rụng rời hết cả. Khát khô cổ mà không dám uống nhiều. Dọc đường, anh Ngọc vẫn là người ít nói. Chỉ đến chặng nghỉ, anh đưa chị thìa đường trộn vài hạt muối và cho chiêu vài ngụm nước trong bình toong. Anh nói, đi đường xa, uống nước đến thỏa khát, sẽ dễ mất sức.
Vừa lúc anh em trong tổ cũng về đến nhà, lao xao cười nói. Lịch kịch tiếng các dụng cụ lao động quăng xuống hàng hiên.
- Chị Kim, sao không vào nhà cho ấm.
- Tháo ghệt ra thôi. Chị kiểm tra xem, vắt có bò vào bụng không.
Mấy cậu xúm lại kéo chị đứng dậy. Sát người vào với ngọn lửa bập bùng rồi, chị mới vụt cảm nhận ra một niềm ấm áp rất khó tả của không khí thân thương trong gia đình.
Chị từ từ cởi ghệt, tháo giày như đang ở nhà mình vậy.
- Sáng nay, chúng em quên không bảo chị bôi xà phòng vào chân rồi hãy quấn ghệt. Vắt sợ không dám bám. Không có ghệt nó còn bâu đen cả bắp chân ấy chứ, phải gạt bằng que nứa nó mới chịu nhả. Nó đã hút mọng máu, rụng xuống rồi, máu còn chảy mãi, chỉ dịt bằng lá nón máu mới cầm.
Chị ngồi ngẩn ra. Điều gì đối với chị cũng là bài học mà ở nhà trường không thể có.
- Làm sao các anh phân biệt được đá hay là quặng?
- Quặng thì khi búa đập vỡ ra, nó mang những hạt óng ánh. Đá không có.
- Tại sao ở tổ này không đặt máy khoan, mà phải đào giếng cho mệt?
- Vì ở đoạn vỉa quặng đi nông thì chỉ cần đào giếng. Những đoạn vỉa sâu, nhiều lớp, thì máy khoan sẽ lấy mẫu theo từng vỉa, từng độ sâu, rồi ta ghi chép, vẽ bản đồ, đem mẫu đi phân tích...
- Khi chạy máy khoan thì cả tổ phải ăn ngủ tại trận ư? Mưa bão thì thế nào?
- Căng bạt ngủ để thay ca cho nhau. Chạy máy khoan lại có những vất vả của nó. Thí dụ nếu mưa dầm đất lở, có khi nghiêng đổ cả giàn khoan. Nhiều chuyện xảy ra bất trắc lắm chứ. Hiểm nguy là đằng khác. Nhưng vì chúng em ở tít trong mây, nên có nhà báo nào biết mà đưa tin.
Mọi người cười ồ:
- Anh Ngọc đây là "tủ" thời sự của chúng em. Cực kỳ bản lĩnh. Chỉ phải tội, đến tuổi này vẫn chưa lập được gia đình.
- Lập gia đình với ai ở cái xứ sở toàn bọn con trai này. Chị là người phụ nữ đầu tiên xuất hiện như một cô Tiên giáng trần vậy.
- Nhưng ngày mai Tiên xuống núi rồi. Tiên thì cũng thích người trần gian, phải không chị?
Ngủ trong mây đến đêm thứ hai mà chị vẫn không sao chợp mắt. Những con người mới gặp, những điều mắt thấy tai nghe hiện lên trong tâm trí chị như những niềm khắc khoải. Cuộc đời lao động đâu chỉ là những tràng vỗ tay, những bó hoa tặng, những tờ giấy khen. Biết bao nhọc nhằn gian khó ẩn kín. Biết bao nỗ lực hy sinh thầm lặng. Biết bao tâm trí cao đẹp ít người biết đến. Chị bắt đầu khám phá, không phải từ lòng đất mà từ lòng người.
Họ dám tự tin và tình nguyện, từ tình yêu công việc của mình làm.
- Đem đàn ra đây, các cậu. Trăng lên rồi kìa...
Âm vang trong lòng chị, điểm tựa đi cùng suốt cả đời người.