hn4u @ Last updated 21/11/04 22:42
Go to my homepage at http://4u.jcisio.com
Full version available at http://4u.jcisio.com/p/story/pt-1288.htm

Bão Vũ

Đảo Khổ Qua

... Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?

Mật đắng - Hàn Mặc Tử

Tôi đã nhiều lần định viết câu chuyện này, nhưng tôi bất lực trong việc tìm cách thể hiện một sự thực rất giống hư cấu. Câu chuyện bi thảm mà trang trọng, rất Sếch-xpia, với âm mưu thâm trầm độc địa, với ngây thơ hồn nhiên thánh thiện và cuồng nhiệt, đậm chất bi kịch cổ điển ấy không thể diễn đạt được bằng cái giọng hài hước cố hữu của tôi. Ông viết đi, văn sĩ đại lãn ạ! Cái giọng ông thích hợp với câu chuyện này. Ông viết để thanh toán hộ tôi cái khế ước giữa Văn Chương với số phận Con Người được ký kết bằng nước mắt. Bây giờ, tôi như còn thấy người con gái đẹp và buồn ấy cô độc trên bãi sú hoang vắng, cặm cụi nhặt những con móng tay, một loại trai vỏ mỏng, hình thon dài trong suốt như móng ngón tay của những tiểu thư đài các. Có lúc cô đứng nhìn trời cao, để đỡ mỏi lưng, mà như để tìm trong hư vô cái nguyên cớ đã khiến cô chịu đầy ải mãi ở mặt đất này như một trọng phạm. Cô không hề để ý tới làn nước triều chết người rất khó nhận biết đang dâng cao dần, nhanh dần; nếu không kịp vào bờ, bất ngờ một con sóng lớn chồm tới, kéo tuột ra xa. Tôi rất hiểu tâm trạng của cô ta lúc đó. Bởi vì...

Ông nhà văn trung ương, người Hà Nội béo đỏ, gõ những ngón tay thon trắng như tay nghệ sĩ dương cầm lên cái trán hói để tìm cách diễn đạt. Nhưng ông say, ngôn từ bay lung tung, khó tóm bắt được chúng. Nhà văn của thành phố biển này, người gày gò, chăm chú lắng nghe; cho đến lúc này, rượu đã ngấm và câu chuyện với bình luận dài dòng khiến ông sốt ruột:

- Tôi muốn hỏi, ông đã gặp cái cô gái ấy chưa, mà biết cô ta có một vẻ đẹp u uẩn, chịu đựng...?

- Rồi!... à mà chưa!

Hai ông ngẩn ra nhìn nhau, còn tôi phá lên cười. Tôi, một gã cai thầu xây dựng hay giao du với văn nghệ sĩ, dự thính chuyện hai nhà văn, đã rất thích thú như được xem một màn song tấu trí tuệ. Nhà văn địa phương tỏ ý chán nản:

- Tức là ông đang quảng cáo miễn phí cho một thứ hàng mà ông chưa được dùng. Ông làm tôi với chú em đây cồn cào lên vì ghen tị với ông. Cứ tưởng là ông đã được sống với một nàng người rừng Sy-na trên một hòn đảo vô danh.

- Không phải là vô danh, mà là đảo Khổ Qua.

- Cái gì? Đảo Khổ Qua - Ông địa phương bật hỏi như một phản xạ.

- Đúng! - Đảo Khổ Qua. Vì nhìn từ xa nó thuôn dài xù xì giống quả mướp đắng nổi trên biển. Những hôm lặng sóng, nửa trên in hình xuống mặt nước thành quả mướp đắng nguyên vẹn. Trên đảo cũng mọc toàn mướp đắng, cơ man là mướp đắng bò lan man chằng chịt khắp nơi. Phải, lúc đó lịch trình chặt chẽ khiến tôi không đủ thời gian tìm gặp cô ấy. Nhưng tôi đã nhìn thấy cô qua kính viễn vọng với hình ảnh như tôi đã nói trên. Cô ấy tên là Nhu, là Nhu. Ông nhớ nhé, ông bạn nhà văn. Nhu nghĩa là mềm mại mà cũng là yếu đuối, nhu nhược. Thời gian tàn nhẫn chắc đã làm được cái việc độc ác của nó là biến cô Nhu rực rỡ, hồn nhiên, rừng rực sức sống thành một thiếu phụ đẹp u uẩn, nhẫn nhục như một góa phụ dù cô chưa hề có chồng. Đấy, ông viết đi. Ông ở xứ này, tiện qua lại đảo ấy. Tôi tặng ông cái khung truyện.

Nhà văn địa phương đang xúc động, suy tưởng theo mạch chuyện, sực tỉnh:

- Cái gì, viết à? Việc gì ông phải long trọng hóa chuyện ấy đến thế. Dù chỉ là một tên thợ sắp chữ tỉnh lẻ, tôi cũng thừa sức làm một truyện ngắn vài nghìn chữ về cái cô Nhu vô hình tích của ông... Cứ đợi đấy. Mà này! Lấy một chai nữa đi, chú thầu khoán! - Ông địa phương bảo tôi, và ông Hà Nội hưởng ứng:

- Đúng, thêm một "lúc nãy, cỡ như cũ"! Tối nay, một nhà văn nhỏ của tỉnh lớn và một nhà văn lớn của tỉnh nhỏ sẽ chưng cất rượu thành nước mắt để khóc ngày xưa. Vì, than ôi! Ta cứ nghĩ rằng, Nhu đã thành người thiên cổ rồi!

Một "lúc nãy, cỡ như cũ" nghĩa là chai Smirnoff thứ hai, loại nhãn xanh, cỡ bảy nhăm. Như mọi lần hai ông bạn thân gặp nhau, tôi cùng họ cạn chai Vodka Smirnoff, thứ rượu nặng mà ông Hà Nội gọi là: "Nỗi buồn Nga", vì chất men bí truyền của dòng họ Smirnoff, đặc Nga, lưu vong nơi đất khách ấy, ngấm rất lâu trong lục phủ ngũ tạng, như một nỗi buồn dai dẳng làm ta không khóc lên được, chỉ nấc cụt, và đau âm ỉ mãi đâu đó sâu trong ức.

Hôm sau, nhà văn trung ương có việc phải về Hà Nội chuyến tàu sớm, khi chúng tôi còn ngủ. Ông để lại mấy chữ cảm ơn tôi đã tiếp đãi và xin lỗi không nhớ ra tên tôi, đành tạm gọi là "chú em Thầu Khoán". Ông nhắc ông bạn văn nhớ viết câu chuyện cô Nhu đảo Khổ Qua. Ông địa phương nhăn nhó, cười gượng:

- Lão nói thế thôi, chứ khó nhá lắm. "Đời cô Nhu" ư? Lại những chuyện viết về người đàn bà bất hạnh với cái kiểu cứ chất đủ mọi tai ương dở sống dở chết đến cuối truyện. Cần một chuyện tình éo le, tớ phịa còn hay bằng mấy chuyện có thực ấy. Với lại, tớ đang bận làm một cái về liên doanh.

Thế mà tôi cứ tưởng câu chuyện làm xúc động trái tim nhạy cảm của nhà văn.

Đảo Khổ Qua không có tên trong bản đồ thường. Bản đồ quân sự ký hiệu đảo này bằng những con số và chữ cái. Lúc mặt trời mọc hay khi chiều tà, nhìn từ xa, kỹ thuật quang học kỳ diệu của thiên nhiên như một trò chơi quang phổ giữa bầu trời và mặt biển làm khu đảo rực sáng long lanh đủ mầu sắc. ánh sáng châu báu ấy đã gây ra ảo tưởng cho những người dân chài nghèo khổ của thế hệ đầu tiên khi họ lang thang trôi dạt trên biển nơi cư trú. Khi đổ bộ lên đảo, người ta mới biết ở đây không có những vỉa vàng, kim cương lộ thiên phát sáng. Tuy vậy, họ đã tìm thấy một nơi có thể sinh sống lâu dài. ở đảo chính có một vụng sâu, kín gió, neo thuyền rất tốt. Trên đảo mọc nhiều rau muối, rau dền và có mạch nước ngọt. Ngày trước, với dân chài và những kẻ trốn lính, tránh phu, chạy tội, thì đây là thiên đường. Một thời, ngư nhân người Hoa cư trú lẫn với dân Việt trên đảo. Người Hoa đặt cho hòn đảo chính là Khổ Qua. Những đảo nhỏ được gọi là Còng Gió, Cái Bèo, Hòn Nhám...

Gã bạn thuở trung học bây giờ là thuyền trưởng tàu vận tải ven biển chở vật tư cho công trình mà tôi xây ở Khổ Qua. Hắn gãi bộ ngực trần nổi múi, nháy mắt với tôi:

- Đến đảo Khổ Qua mà được ở lại đó ít lâu là trúng giải đặc biệt đấy.

- ở đấy có gì hấp dẫn? - Tôi hỏi.

- Con gái! Ông cai thầu ạ. Con gái Khổ Qua là đặc sản thượng hạng. - Gã thuyền trưởng nói sau cái liếm mép rất tự nhiên, như một con sói đói khát nghĩ tới lũ thỏ béo - Nghề hàng hải của tôi nghiên cứu rất nghiêm túc về đám đàn bà con gái như nghiên cứu những luồng lạch trên sông biển vậy. Có vùng biển, vùng đất tạo ra những người con gái hấp dẫn. Nếu đánh mất hải đồ hoặc la bàn khi đi biển, thì hãy tìm hiểu những nữ thổ dân ta bắt gặp trên các đảo. Bầu ngực, bộ giò, cặp môi, ánh mắt, mầu da, và cách làm tình của họ sẽ cho ta biết đang ở đâu. Thí dụ, nếu ta đắm tàu giạt đến Tahiti chẳng hạn. Quan sát bộ ngực lớn quá khổ để trần của các cô gái ở đó, ta sẽ biết tên chính xác của hòn đảo này cùng với kinh độ, vĩ độ.

Tôi phì cười, vì lối nhào trộn bậy bạ giữa môn địa lý và nhân chủng học của gã bạn ba láp. Nhưng cái tên Khổ Qua đã gợi tới câu chuyện về Nhu. Tôi sẽ sưu tầm về cô gái bất hạnh ấy, để có thể giúp ông nhà văn viết được một tác phẩm văn học.

Hòn Nhám là nơi chúng tôi xây dựng ngôi nhà làm việc cho một cơ quan nghiên cứu biển. Đảo này còn có tên khác do người Pháp đặt: "Nau - Vol", gọi tắt của "Naufrages Volontaire" - Tình nguyện đắm tàu. Vì quanh Hòn Nhám có những vách đá dựng đứng, khi động biển có thể làm vỡ tan tàu thuyền nào định cập bờ đảo. Eo biển giáp đảo chính Khổ Qua, hàng đàn cá nhám - một loại cá mập - và có cả lũ cá mập trắng thường lởn vởn gần những mỏm đá ngầm hiểm ác.

Tàu nhổ neo trở về đất liền, gã thuyền trưởng rậm râu đứng trên boong hớn hở gửi tôi một cái hôn gió. Mấy ngày chờ bốc dỡ vật tư xây dựng, hắn đã kịp làm cái việc cần thiết của một gã thủy thủ đàng điếm đối với vài nữ cư dân trên đảo.

Ông già tôi thuê làm cấp dưỡng tên là Thự, đã sống trên đảo hơn bốn mươi năm. Ông từng là bộ đội tham gia giải phóng đảo từ tay quân Pháp và ông già đã có thời làm chủ tịch xã đảo Khổ Qua. Ông Thự nấu ăn rất giỏi. Món cùi mướp đắng xào tu hài của ông tưới thứ nước sốt chế từ hạt mướp đắng giã nhừ với ớt tươi, trộn nước cốt sò huyết, có vị cay, đắng và ngọt đượm thấm thía, ngon kỳ lạ. Trên hòn đảo buồn tẻ này, những món ăn lạ và ngon như vậy đã trở thành thú vui thể xác và tinh thần đối với những gã thị dân. Đến nỗi chỉ sau ba tuần lễ, cả bọn chúng tôi đều béo phị ra. Mỗi chiều, khi tắm trên dải cát hẹp dưới chân đảo, cả một lũ béo quay, trông đần độn tức cười. Một đêm, nhìn đám thợ từng đống ngổn ngang nằm ngủ, tôi đã bật cười, kể cho ông Thự nghe cái đoạn trong trường ca của Hôme nói về đám thủy thủ đói khát trôi giạt tới hòn đảo của mụ phù thủy Xiêxê, bị biến thành một đàn lợn ủn ỉn. Ông Thự không cười. Lát sau, ông nói:

- Đảo này khí hậu tốt, hợp phong thủy nên dân đảo khỏe mạnh đẹp đẽ, gái dân chài mà da dẻ hồng hào, mịn màng. Hồi mới lên đảo, bọn tôi anh nào anh nấy xanh xao hốc hác, thế mà chỉ ít lâu, cả bọn béo đỏ ra. Bộ đội, với gái đảo cứ nhìn thấy nhau là mặt bừng bừng, rạo rực như uống rượu.

- ái chà! Chắc là từ hồi đó, bố chiến đấu rất ác liệt đến bây giờ vẫn chưa hạ vũ khí, chưa chịu rời đảo. Bố hơi bị khôn đấy! - Một gã thợ sắt díp mắt ngáp, chêm một câu trước khi ngủ hẳn. Ông Thự không để ý đến câu nói ấy, mắt đăm đăm nhìn ra những lớp sóng lân tinh trên nền biển đen thẫm. Về khuya, mặt sóng dần êm hơn, gió tắt ngấm, ngột ngạt như sắp có giông. Điều tôi mong đợi đã đến bất ngờ. Ông Thự tự nhiên nói tới chuyện ấy như thể nó chợt sáng lên trên cái nền ký ức mịt mù. Thời gian không phải là toàn năng trong việc làm phai nhạt tất cả.

- Đêm ấy, biển cũng lặng gió, bức bối như thế này. Cô ấy đã một mình bơi chiếc thuyền con từ Cái Bèo sang đây.

- Bác nói về cô Nhu phải không? - Tôi bật lên như phải bỏng.

- Thì còn ai nữa. - Ông Thự không ngạc nhiên khi tôi nói đến tên cô Nhu, làm như cô ấy là người nổi tiếng, ai cũng biết.

Tôi đưa bao thuốc lá cho ông, và hưởng ứng câu chuyện cũng rất tự nhiên:

- Bố, bố kể thật kỹ xem nào. Con chỉ mới nghe qua thôi.

Ông Thự kể câu chuyện không phải vì lời thỉnh cầu của tôi, mà sau này tôi mới biết đó là tự ông muốn giải thoát một khối nặng nề đè trĩu lương tâm.

................

Lão Sòng, bố của Nhu, là sếp bốt Hòn Nhám, cầm  đầu đám lính đảo Khổ Qua. Bọn này toàn dân đạo gốc vùng Bùi Chu, Phát Diệm giạt ra đây. Lính đạo đánh trận rất dữ và rất trung thành với các chỉ huy người Pháp, cho rằng cùng là Dân nước Chúa. Trước ngày hòa bình ít lâu, chúng tôi tiến đánh Khổ Qua để khai thông tuyến tiếp tế quân sự từ khu Bốn ra cho những trận đánh cuối cùng ở phía bắc. Lão Sòng cùng đám lính đạo cố thủ trong lô cốt. Chúng dùng đại liên khống chế cái bến duy nhất, làm quân ta suốt đêm không đổ bộ lên đảo được. Tôi phải cho một tiểu đội cảm tử nhất loạt lia tiểu liên, ào đến lô cốt. Cả mười một cậu trẻ măng bị đạn xuyên nát ngực, gục trên đường tiến. Còn một cậu bị thương nặng cố lết đến lô cốt đặt quả bộc phá cỡ lớn, rồi không còn sức lùi xa, cũng hy sinh. Bọn trong lô cốt chết sạch. Nhưng mấy tên sĩ quan đã kịp theo lối ngầm xuống mặt biển, vọt ca-nô biến mất. Lão Sòng ở trong số đó, sau này lão bị liệt vào loại có nợ máu với cách mạng.

- Khiếp quá! Thế cô Nhu lúc đó ở đâu? - Tôi lái câu chuyện.

- Nhu... Nhu à? - Ông Thự trả lời sau một lúc im lặng - Lúc bấy giờ Nhu ở nhờ một nhà quen trên đảo.

Lão chủ cửa hàng tạp hóa, người Hoa, họ Triệu, run rẩy chìa cho Thự đầu đoạn dây thừng, đầu kia là cô gái tóc rũ rượi, bị trói giật cánh khuỷu, như thể lão giao cho anh một con bê non:

- Thưa... thưa chỉ huy. Con bé này là con tên Sòng, sếp bốt Hòn Nhám.

Cô gái chừng mười tám tuổi, mớ tóc dài đen mướt rẽ ngôi giữa, trán có vết tím bầm, cặp mắt mở to ngơ ngác sợ hãi. Thự hỏi, mắt chăm chú nhìn cô gái:

- Cô này làm gì trong hàng ngũ bọn lính đảo? Cứu thương, điện tín viên...?

- Bẩm... không ạ. Nó... chỉ là con của tên Sòng. Nó đi học bên Cái Bàu, đang kỳ nghỉ ở nhà... Nó cùng học với con bé nhà tôi. Nó trốn trong nhà tôi, hôm nay tôi mới biết. Thưa... khu nhà tôi rộng, không để mắt hết. Thưa... quả tình...

- Thế còn ông? Làm gì ở đảo này? - Người trợ lý của Thự hỏi xen vào.

Đó là Hải, học sinh trung học, văn hóa cao nhất đơn vị; thường giúp Thự việc thảo báo cáo, vẽ bản đồ, và thông ngôn khi hỏi cung tù binh Pháp. Thự rất quý mến thân thiết với người trợ thủ đắc lực của mình. Lão Triệu sợ hãi trả lời:

- Dạ... tôi chỉ bán gạo, vải vóc, tạp hóa... Tôi có cửa hàng bên Cái Bèo.

Hải quát lên, như không ghìm được tức giận:

- Tức là phục vụ lính ngụy, làm tay sai cho giặc chứ gì? Ai cho phép ông hành hạ, đánh đập người khác? Cởi trói cho người ta ngay!

- Bẩm... tôi không đánh, lúc nãy nó vấp ngã, tay vướng không đỡ được... Vâng, vâng... tôi cởi trói ngay đây... Tôi không bán hàng riêng gì cho bọn lính... ai có tiền mua, tôi bán... - Lão Triệu run bắn.

- Thôi được chúng tôi sẽ giữ cả hai người lại để điều tra. - Thự lên tiếng.

Lão già lập cập cởi trói cho cô bé, rồi chợt bật khóc ồ ồ:

- Con ơi, bác cứ tưởng làm thế này thì tốt cho con lẫn cho bác...

Cô bé cũng ôm mặt khóc. Người cha của bạn cô đã bày kế khổ nhục để an toàn cho gia đình ông ta và cũng là cách cô tự nộp mình. Thự cho giữ hai người lại căn vặn, hôm sau mới thả. Anh làm thế để thị uy. Lão Triệu được tiếp tục buôn bán vì cửa hàng của lão cũng rất cần cho dân đảo và bộ đội.

Với cô bé thì bắt đầu những ngày không dễ chịu. Cô tên là Nhu con của sếp bốt Hòn Nhám. Mặc dù cặp mắt trong trẻo và bề ngoài trẻ con của Nhu không thể che đậy một âm mưu gì, nhưng Thự vẫn phải cảnh giác. Có thể lão Sòng cho con gái ở lại để phá hoại ta. Thự là dân miền biển, thạo sông nước từ nhỏ, học hành chút ít, rồi làm thủy thủ. Chưa kịp vợ con và cũng chưa biết yêu đương, thì toàn quốc kháng chiến, Thự gia nhập vệ quốc quân và trở thành một chỉ huy rất kiên quyết.

Khi Nhu hất mớ tóc dày đen nhánh lên để lộ khuôn mặt trẻ trung hấp dẫn một cách tự nhiên, tim Thự đập mạnh. Trước mặt anh là con gái của một kẻ thù. Nhưng sự xác định tư tưởng ấy rất ít tác dụng. Lý thuyết về đấu tranh giai cấp cũng không giúp anh ổn định được lập trường, chế ngự được con sóng tình cảm bản năng. Giá như Nhu biết kiêu hãnh về sắc đẹp của mình, cố ý làm tăng sự hấp dẫn, thì Thự sẽ coi cô thuộc loại vợ con của bọn tư sản phản động và anh sẽ không chút bận tâm. Nhưng cô ta lại hồn nhiên ngây thơ, không chút ý thức về sắc đẹp và địa vị trước kia của mình.

Lão Triệu xin cho Nhu được về ở nhà lão. Con gái của lão và Nhu cùng học một lớp, thân thiết như chị em. Chưa có cách giải quyết với Nhu, Thự đồng ý để Nhu sống hợp pháp trong nhà lão Triệu, nhưng lão phải chịu trách nhiệm về Nhu.

- Lão lái buôn vụ lợi! - Hải khó chịu bình luận - Lão sợ lúc này thuê nhân công sẽ mang tiếng bóc lột.

Ngoài xa, cơn bão mấy hôm trước đã tan hẳn, mặt biển ánh mầu lá cây sẫm. Vài chiếc thuyền của dân chài Khổ Qua đã ra khơi. Những người dân chất phác của đảo Khổ Qua đã quen với cuộc sống mới. Thự được cử tạm thời làm chủ tịch xã đảo Khổ Qua. Nhưng Thự nghĩ rằng cuộc sống ở đây chưa thể bình thường. Anh luôn chú ý tới Nhu. Vì, Thự tự giải thích, cần phải để mắt tới trường hợp đặc biệt này. Anh hay tới cửa hàng lão Triệu ngồi rất lâu với ca nước uống như thuốc bắc do lão Triệu chế. Có lúc Thự giúp Nhu khiêng bao gạo, xách thùng dầu hỏa... làm lão Triệu cảm ơn rối rít. Đó là cách giám sát và cảm hóa kẻ thuộc thành phần xấu.

ít lâu sau, lão Triệu rụt rè xin cho con gái mình và Nhu sang Cái Bàu theo học tiếp. Thự trả lời:

- Con gái ông cứ việc đi học. Nhưng cô Nhu thì không được.

Lão Triệu ngạc nhiên:

- Sao con Nhu lại không được đi học? Tôi xin bảo đảm mà!

- Cô ta cần phải ở lại đây để tiện theo dõi, khống chế. Còn ông hãy bảo đảm cho chính ông trước đã. Tôi còn chưa tính đến chuyện trước kia ông đã phục vụ cho bọn lính đảo như thế nào! - Thự tức giận.

Lão Triệu run bắn, lập cập ra về. Sợ rắc rối, lão bỏ cả ý định cưới Nhu cho con trai. Nhu nhẫn nhục làm lụng mọi việc trong nhà lão Triệu, câm lặng như cái bóng với thân phận con nuôi, mà cũng là con ở. Nhưng Nhu ngày càng đẹp, vẻ đẹp âm thầm của loài hoa dưới vực tối, không rực rỡ mà lặng lẽ tỏa hương, với đôi mắt đen không ánh, đượm buồn luôn nhìn xuống. Những chàng bộ đội trẻ ngẩn ngơ vì vẻ đẹp ấy. Giống như người đang thực hiện trọng trách trông coi một nhà tu kín, Thự cũng cay nghiệt không kém một bà Nhất đối với các nữ tu.

Có một tay quê vùng trung du, đã thành khẩn tự kiểm điểm rằng mình có quan hệ với Nhu, Thự nổi giận, lôi gã  ra hội nghị tập thể chần cho một mẻ nên thân, rồi đề nghị chuyển gã đến một đảo xa tít ngoài khơi. Thự cũng thừa biết cái gã mặt rỗ, nói lắp ấy bịa chuyện để được về đất liền, nhưng gã láu táu đã tự hại mình.

Được cai quản một vùng lãnh thổ biệt lập cả dân sự lẫn quân sự, Thự mang ý thức của một nhà toàn quyền, quyết định mọi chuyện trong đời sống của dân đảo. Còn anh em bộ đội thì coi Thự là một vị chỉ huy được đúc bằng gang, không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để trừng phạt cấp dưới. Họ giữ một khoảng cách an toàn đối với anh ta. Thự biết, nhưng không hề có ý định thay đổi tính cách của mình. ở nơi chơ vơ sóng gió như trên một con tàu viễn dương này, nếu dễ dãi với dân chúng và cấp dưới thì trật tự sẽ đảo lộn và những điều tệ hại nhất sẽ xảy ra. Anh bắt buộc mọi người giám sát lẫn nhau để rồi mọi chuyện riêng phải được đưa ra những buổi sinh hoạt tập thể. Thích ăn ngon mặc đẹp là tư tưởng hưởng thụ, là thói xấu tư sản, bóc lột. Chuyện yêu đương trai gái chỉ là khởi sự của hủ hóa. Những điều đó phải bị lên án.

Hải là người đầu tiên phản đối Thự:

- Anh em là bộ đội từng trải, tự biết đúng, sai. Không có những quy định khắt khe của anh thì ở hòn đảo hoang vu này cũng quá gian khổ rồi.

- Cậu định phê phán cấp trên? Tôi là chỉ huy, tôi chịu trách nhiệm về mọi mặt trên đảo này. Vừa mới hòa bình mà các cậu đã muốn hưởng lạc, mất cảnh giác? Tôi yêu cầu cậu phải làm kiểm điểm trước trung đội!

Tình thân giữa hai người từ rất lâu trước kia đã không còn nữa.

Trời sắp sang thu, biển xám mầu chì. Sóng cuồn cuộn vật vã như đã tự dằn vặt về một điều gì đó. Bỗng dưng chiều nay Thự nhớ nhà. Con đường mòn trên sườn đảo vắng ngắt. Tiếng chim chao bọt sóng dưới kia từng âm ngắn buồn buồn. Thự lầm lũi rẽ cây dại, vừa đi vừa nghĩ vẩn vơ. Thự thấy mình cô độc. Hình ảnh Nhu thoáng gợi một ý nghĩ êm dịu. Nhưng Thự lướt nhanh ý nghĩ đó như giấu vội một thứ của gian dưới áo khi bắt gặp người khác. Đã đến gần cái lô cốt cũ. Cỏ lau, những dây mướp đắng và rêu đang phủ kín dần những mảng tường đá vỡ nát vì bộc phá trước đây, trông như phế tích của một thời nào đó. Chợt Thự đứng sững lại.

Có tiếng người thì thào lẫn trong tiếng cỏ gianh xào xạc và tiếng sóng.

... Có em rồi, mẹ vẫn không chịu chung sống với cha em. - Tiếng nói của Nhu - Mẹ làm công việc chài lưới vất vả của đàn ông để nuôi em, không nhận một đồng tiền của cha em. Khi em lên năm tuổi, cha bắt em từ Cái Bèo về bên đồn Hòn Nhám. Bọn lính đẩy ngã mẹ em và lôi em đi. Em khóc thét, cắn chảy máu tay tên lính. Còn mẹ thì gào lên: "Con nhớ lấy, con là con đẻ của mẹ, nhưng mẹ bị lão Sòng cưỡng bức sinh ra con. Mẹ yêu thương con suốt đời, nhưng mẹ căm thù lão Sòng đến chết!".

- Vì sao lại thế? - Tiếng một người con trai. Chính là Hải. Thự thấy tim hụt nhịp vì bất ngờ. Anh ngồi xuống sau mô đá lắng nghe.

- Mẹ và một người trai đảo này sắp cưới nhau. Sau, người ấy bị chết vì cá mập. Dân đảo bảo vì cha em muốn lấy mẹ em nên bày đặt ra như thế, chứ người ấy thạo sông nước nhất đảo này. Hồi ấy mẹ em đẹp lắm.

- Rồi mẹ có về với cha em không?

- Không. Sau này trong một trận bão biển, mẹ em bị tai nạn, lòa hai mắt. Rồi mẹ chết đuối khi đi nhặt con móng tay, nước triều lên, không biết lối vào bờ...

- Sao lúc lớn lên, em không về với mẹ?

- Năm em lên tám, bố em đã gửi em sang học trọ bên Cái Bèo. Lúc mẹ em chết, em cũng không biết.

Họ im lặng. Thự khẽ nhô đầu ra khỏi bờ đá và anh nhìn thấy Nhu úp mặt vào vai Hải khóc, còn Hải lau nước mắt cho người yêu bằng cặp môi của mình. Thự muốn nhảy xổ ra thét lên: "A! Các người dám đem nhau ra đây hủ hóa!"... Nhưng Thự kịp nhận ra rằng mình vô lý, và anh đành ngồi yên.

- Bây giờ em định thế nào. Chả lẽ cứ đi ở không công cho nhà lão Triệu.

- Em cũng chẳng biết phải làm gì nữa. Có lần ông Thự đến quán lão Triệu, mà không hiểu sao ông ấy hay đến đấy thế, em xin ông ấy cho phép em về Hải Dương với họ hàng bên ngoại. Nhưng ông ấy không nghe, bảo em thuộc thành phần không thể cho vào đất liền được. Có lẽ em chết mòn ở đây mất thôi.

Bất chợt Hải nắm chặt cánh tay Nhu:

- Chúng mình cưới nhau! Em bằng lòng không?

Nhu lặng người đi một lát.

- Em biết. Hôm lão Triệu trói em nộp cho bộ đội, anh đã bênh vực em. Nhưng... ông Thự sẽ bảo em là "viên đạn bọc đường", em lấy anh là để bôi đen anh, để chui vào hàng ngũ các anh?

- Anh sẽ báo cáo cấp trên rằng anh lấy em là để cải tạo em. Nếu cấp trên không yên tâm thì cho anh giải ngũ, ở lại đảo này với em. Không được như vậy, thì chúng mình sẽ vượt biển trốn đến một đảo khác, thật xa.

Vậy là đối với hai người yêu nhau, câu chuyện không còn nan giải nữa. Và họ xiết chặt tay nhau say đắm như mọi cặp tình nhân trên đời! Chợt Hải ôm bả vai, kêu lên:

- Ôi, em cắn anh đứt thịt rồi!

- Chảy máu nữa. Anh sẽ phải nhớ em suốt đời. Để em lấy khăn băng cho anh.

Họ đã yêu nhau từ rất lâu mà Thự không hề biết gì. Bây giờ bí mật phô bày ngay trước mắt anh. Thự nuốt nghẹn, giật lùi trượt xuống sườn dốc.

Đêm ấy, Thự không ngủ. Tiếng sóng ầm ầm dội vào trí não Thự như hối thúc để đến sáng bật ra một quyết định. Anh liên lạc về đất liền báo cáo chuyện của Hải. Anh lưu ý cấp trên rằng, có thể đây là âm mưu của lão Sòng. Một chuyện nghiêm trọng ghê gớm. Thự đề nghị điều động gấp Hải về đất liền để xử trí. Chờ đến sau bữa cơm chiều. Thự mới cho Hải biết quyết định của cấp trên: Hải phải chọn: Hoặc theo ngay chuyến tàu tối nay về đất liền chịu kỷ luật, để còn có cơ hội phục hồi và tiến bộ. Hoặc ở lại đảo như một phạm nhân và mọi cánh cửa dẫn đến tiền đồ tốt đẹp sẽ đóng sập vĩnh viễn! Hải hốt hoảng như đứng trước sự sống và cái chết. Tình yêu không giúp gì được cho anh. Hải đã chọn cách thứ nhất. Anh không kịp báo cho Nhu, tuy vậy trước khi lên tàu, Hải đã nhờ người bạn thân treo ngọn đèn bão lên nóc tháp canh vào đêm nay. Và cái đốm sáng ấy đã khiến Nhu tin yêu, đợi chờ anh suốt đời.

Còn Hải thì không bao giờ trở lại đảo Khổ Qua nữa.

Chập tối, con tàu tiếp tế định kỳ cho đồn biên phòng Khổ Qua trở về đất liền. Tiếng còi chào rời bến vang động khu đảo. Nhu bồn chồn. Có gì bất thường trong tiếng còi ly biệt rên rĩ như tiếng rống bi thiết của một con vật bất lực, tuyệt vọng.

Đêm đến, Nhu vội vã chèo con thuyền nhỏ vượt qua eo biển. Trời lặng gió. Chớp giật sáng chân mây xa. Những đợt sóng ngầm rất mạnh. Sắp có bão rồi. Lũ cá mập hung tợn hơn ngày thường. Chúng bám theo Nhu, quẫy táp dữ dội làm khoang thuyền hẹp dằm nước mấp mé muốn chìm. Nhu vừa chống chọi với bầy cá mập vừa chèo giữ không để dòng tiểu hải lưu thường xuất hiện ở eo biển này trước cơn bão, đang muốn cuốn băng con thuyền ra khơi. Nhu đã theo hướng ngọn đèn trên tháp canh đồn biên phòng, đưa thuyền đến được Hòn Nhám, như cô đã vượt qua địa ngục.

Tổ tuần tra gặp Nhu bên mép nước với mái chèo gãy. Cô nằm trên cát, nhợt nhạt, bắp chân trần vấy máu, bộ quần áo rách tươm, ướt sũng, đã bộc lộ những đường cong thường ngày bị che khuất. Thân thể người con gái lấp lánh trong vừng sáng trắng của chiếc đèn bốn pin, lộng lẫy như nàng tiên cá vừa từ dưới biển lên. Những người lính dạn dày với sóng  gió và những trận đánh ác liệt trên biển, đứng vây quanh, ngạc nhiên vì chuyến vượt eo biển dữ trong đêm của Nhu.

Thự được tin, hộc tốc đến nơi.

- Đang đêm, cô đến đây làm gì? - Thự thét lên - Do thám gián điệp phải không? Đêm tối như mực, chỉ có la bàn gián điệp mới xác định được vị trí Hòn Nhám này! Ghê gớm thật. Phải khám xem nào. - Thự vừa chạm tay vào thân thể Nhu thì cô bật dậy hoảng hốt ôm chặt lấy ngực.

- Không... em không phải là gián điệp. Em đi tìm anh Hải.

- Hải đã theo tàu tiếp tế về từ chập tối. Về phép cưới vợ, rồi ở lại đất liền luôn! - Thự hả hê thông báo. Nhu rũ người xuống mặt cát, môi tái nhợt trong ánh đèn:

- Ông nói dối, trên tháp canh kia có ngọn đèn giúp tôi bơi thuyền đến được đây. Anh ấy còn ở đó. - Nhu ờ khóc nức nở. Ông nói dối! Ông ác lắm! Tôi căm thù ông. ánh đèn ấy nói rằng anh ấy vẫn còn yêu tôi.

- Một lũ gián điệp! Bọn chúng cấu kết với nhau. Tên Hải đi rồi. Ai đã thắp đèn làm tín hiệu gián điệp? Thành khẩn khai ra, sẽ được khoan hồng. - Thự thét lên.

Không ai trả lời Thự. Từ bên Cái Bèo, trong đêm mịt mùng, nhìn thấy rõ đốm sáng này. Đó là một vi phạm quy định, không thể tha thứ. Nhưng Thự không tìm ra người treo ngọn đèn và Thự cũng không hề biết những đêm trước kia, vẫn có ngọn đèn ở đấy, với quy ước "Anh, anh đang ở đây. Anh yêu em!".

- Cậu Trung! Lên đập tan ngọn đèn gián điệp đi! Tổ gác là sẽ bị kỷ luật nặng. Còn cô, về ngay Cái Bèo! Đây là khu quân sự. Mai tôi sẽ nói chuyện với lão Triệu.

Nhu đã hiểu. Cô im lặng đứng lên cầm chiếc mái chèo gãy làm nạng chống, lê đôi chân đẫm máu, từng bước như lết đến bên con thuyền nhỏ. Trước cặp mắt như nảy lửa của Thự, không ai đứng đó dám đến giúp Nhu lật nghiêng con thuyền, để đổ nước. Nhu một mình làm cái việc nặng nhọc đó với chiếc chân bị thương. Những người lính nghe tiếng rên khẽ đau đớn và tiếng nức nở không nén được của cô gái. Mặt họ nóng vì xấu hổ. Rồi bất chợt cả ba người trong đội tuần tra cùng một lúc chạy đến giúp Nhu. Cứ để ông Thự kỷ luật cả đội, cả tổ gác trên kia, và toàn trung đội nữa! Cho ông ấy sung sướng đến phát điên lên vì một lúc đã tóm được rất nhiều kẻ lầm lỗi để trừng trị! Ba người phớt lờ cặp mắt nảy lửa của Thự, và lương tâm họ thanh thản.

Ngọn đèn trên sườn đảo tắt ngấm. Biển đen như đáy vực. Nhu có thể giạt ra ngoài khơi, có thể lạc trở lại khu vực có lũ cá mập. Một anh bộ đội ghé tai Nhu: "Cho thuyền lại sườn Đông đảo trú tạm. Đến sáng, anh đưa về". Không. Anh Hải đã đi rồi. Nhu vui lòng chết dưới những lớp sóng đen lạnh ngắt kia. Nhưng khi Nhu vừa đẩy thuyền ra mép nước thì mặt biển chợt sáng rực. Trăng đã mọc, mặt trăng rất lớn mầu da cam soi rõ hòn đảo chính hình quả mướp đắng.

Tôi nhìn những lớp sóng lân tinh ngoài khơi và hình dung ra con thuyền mỏng manh cùng cô gái yếu đuối đang vật vã chống chọi với sóng dữ và bầy cá mập đói. Nhưng tôi không tưởng tượng nổi, sau đó ít lâu Thự đã ngỏ ý xin cưới Nhu, đúng lúc anh ta đang ở vị trí quyền lực cực trị của vương quốc Khổ Qua này. Liệu lúc đó trông Thự có giống điệu bộ của một vị đại giáo chủ thời trung cổ khi ngỏ lời cầu hôn với một cô gái tà đạo bị khép tội hành nghề phù thủy? Anh ta tỏ vẻ hạ cố cúi xuống một "đối tượng thành phần xấu" để cải tạo cảm hóa; hay bối rối sượng sùng? Và tôi cũng hình dung rất rõ, Nhu ôm mặt thét lên ghê sợ khi nghe Thự nói lời yêu cầu ấy.

Thự đã bị kỷ luật nặng, bị cách chức vì đối xử quân phiệt với cấp dưới và vì cả chuyện xin cưới hỏi kỳ cục đó. Thự trở thành một thường dân. Anh ta xin ở lại đảo để được hàng ngày nhìn thấy Nhu. Nhưng cũng vì thế mà hàng ngày anh ta lại phải tận mắt thấy nỗi bất hạnh của Nhu. Chỉ nhìn thôi mà không thể giúp gì cho người mà anh ta yêu đến mất trí. Đó là hình phạt. Giống như một cực hình trong thần thoại. Thự đói khát cồn cào mà không thể cúi xuống uống thỏa thích suối nước trong mát ngọt lịm dưới chân, không thể với tới quả chín ngay trên đầu mình.

Những người chứng kiến câu chuyện đã dần đi nơi khác. Dân đảo chất phác lo kiếm sống thường ngày, không nhớ gì những chuyện xưa cũ. Chỉ còn lại Nhu và Thự là người trong chuyện. Nhưng sự chờ đợi mệt mỏi và tuổi già đã đến. Tâm hồn Nhu trống rỗng, không còn căm giận, thù hận nữa. Cứ như câu chuyện ấy là của những người khác. Thậm chí cô cư xử với Thự như với một người quen biết cũ. Thự kín đáo săn sóc Nhu từ xa. Anh vẫn chưa thôi ý định cầu hôn, cho dù ý định đó bây giờ đối với cả hai người đã trở nên vô cảm như một vết chai cứng.

Một lần Nhu nói với Thự, khi anh hỏi cô về tin tức gì của Hải:

- Chắc anh Hải bị phạt tù nhiều năm vì tội làm gián điệp. Nhưng nhất định anh ấy sẽ trở lại đảo Khổ Qua dù có phải chịu khốn khổ vì ông, ông Thự ạ.

Thự biết rõ về Hải. Ông chú ruột là người có thế lực đã giúp Hải thoát khỏi kỷ luật nặng. Hải chuyển ngành sang một cơ quan văn hóa. Là người văn hay chữ tốt, anh được làm thư ký riêng cho một thủ trưởng lớn, được trọng dụng. Hải lấy một người vợ rất vừa ý. Anh chăm lo cho cái cương vị đầy triển vọng của mình và bận tối mắt vì những chuyện vụn vặt khác như mọi người. Anh mau chóng quên những gì thuộc về cái hòn đảo  đáng nguyền rủa đã suýt làm tiêu tan sự nghiệp của anh.

Thự không kể lại với Nhu những chuyện đó. Anh sợ Nhu nghĩ đó là bịa đặt, và anh cũng không nỡ đập vỡ đi hy vọng duy nhất của Nhu. Có vài gã trai đảo muốn cưới Nhu. Nhưng cô không còn biết đến người đàn ông nào trên đời nữa. Cô không quên được Hải, không quên được mối tình đầu ngắn ngủi với cặp môi âu yếm đã lau những giọt nước mắt tủi cực của cô.

Chiều mùa thu, biển xám đục mầu thiếc. Vì cá mập táp đã làm một bên chân Nhu thành tật, phải chống nạng. Những buổi xấu trời như chiều nay, vết thương đau nhức, gợi lại chuyện cũ. Một mình bên bãi sú hoang vắng, Nhu cắm cúi nhặt những con móng tay. Cô làm việc đó hờ hững như đứa trẻ nghịch bùn đất, như một người lẩn thẩn. Cô lết đi dần xa bờ. Sao Hôm đã mọc. ở bãi Cái Bèo nơi Nhu đang đứng, nhìn sang Hòn Nhám, ngôi sao to rực sáng trong ánh chiều như một ngọn đèn treo đúng nơi tháp canh của đồn biên phòng ngày trước.

- Anh ấy vẫn còn yêu mình... - Nhu thì thầm, không biết mình đã đi xa quá bờ, mực nước triều đang dâng đến ngang ngực thân hình cô nghiêng ngả. - Anh vẫn ở đây. Anh vẫn yêu em...! - Nhu đăm đắm nhìn ngôi sao Hôm. Cô không nghe thấy tiếng ai trên bờ gào lên gọi tên cô. Đó là Thự. Anh cũng nhào xuống nước nhưng sóng đã xô bật anh trở lại cùng với đám rác biển.

Cô gái đã chết theo cách của mẹ mình ngày xưa. Nhưng cô còn nhìn thấy đốm sáng trên nóc tháp cạnh Hòn Nhám, trước khi thả mình vào làn sóng xám lạnh.

Tôi im lặng, nhìn vô định ra mặt biển đêm đen hun hút. Một lúc sau, tôi cất tiếng hỏi mà không quay nhìn khuôn mặt dúm dó khuất trong bóng tối của lão Thự:

- Có bao giờ bác nghĩ rằng chính bác đã đẩy người con gái vô tội ấy xuống biển không? - Tôi hỏi và hả hê như khi lão báo cho Nhu cái tin độc địa về Hải, lúc Nhu vượt biển sang Hòn Nhám với khao khát được trốn đi cùng người yêu.

Lão Thự vội rụt cổ lại như bị đòn đánh vào đầu. Lão câm lặng.

Những hôm sau, tôi không nói chuyện với lão nữa. Khi ăn, tôi tránh không ngồi một mâm với lão. Trước, tôi với lão thường ngồi cùng mâm, chuyện trò tương đắc. Lão Thự biết rõ điều đó. Một chiều chủ nhật, sau khi nấu cho chúng tôi một bữa cuối cùng thật ngon, lão Thự xin thôi việc. Lão không kịp thanh toán nốt tiền lương, vội vã bỏ đi khỏi công trường, như chạy trốn. Tôi cử ngay một gã thợ mộc thay thế lão Thự. Những món ăn của gã đầu bếp chuyên sử dụng dùi đục này đã mau chóng làm chúng tôi sút cân. Nhưng tôi không hề luyến tiếc lão Thự. Tuy trong thâm tâm, tôi thương hại lão vì một lý do mơ hồ, tôi thương hại lão để tâm xác định.

Hơn tuần sau, một buổi chiều sau giờ làm việc tôi ngồi nhìn biển, nghĩ vẩn vơ. Tay thợ mộc đi mua thực phẩm từ bên Cái Bèo về, hớt hải nói oang oang:

- Này, các bố liệu mà bơi lội đấy nhá! Các bố có biết gì không? Lão Thự bị cá xơi tái rồi. Đêm qua, lúc trăng mọc. Lão đi tắm, chẳng biết phởn chí thế đếch nào lại bơi ra rất xa, đúng vào luồng cá mập đi kiếm mồi.

Tôi kể xong câu chuyện nghe được ở đảo Khổ Qua. Nhà văn địa phương im lặng. Có vẻ như ông đã biết trước chuyện này.

- Chuyện lâu quá rồi. Những người trong cuộc đã chết gần hết. Còn ai sống chắc cũng đã quên chuyện cũ, hoặc sẽ nhìn sự việc khác đi.

- Có lẽ bây giờ chỉ còn ông Hải. Nhưng cái vết răng cắn ấy thành sẹo, làm sao xóa đi được? - Tôi nói bâng quơ, và rồi tôi bật hỏi - Sao bác không viết chuyện này?

Nhà văn khẽ so vai như ớn lạnh, nói bâng quơ:

- Giữa đêm biển động, trên một hòn đảo, có tay bác sĩ phẫu thuật bị viêm ruột thừa mà không có đồng nghiệp nào ở bên. Tay bác sĩ đã quỳ trước một tấm gương, tự mổ cắt ruột cho mình. Hắn được phong anh hùng. Việc đó có thể làm được, chỉ cần ít thuốc tê. Còn tự giải phẫu ruột gan trong văn chương thì...

- Em nói điều này, bác bỏ qua. Hình như bác cũng có dính líu với nội vụ?

Nhà văn im lặng rất lâu. Rồi ông triết lý, nhập nhòa như bào chữa cho ai đó:

- Lão Thự, lão béo, cả tôi và cả cậu nữa, nếu như cậu cũng ở trên đảo Khổ Qua vào thời đó. Chúng ta đều có thể gây nên nỗi bất hạnh cho những người như cô Nhu. Vì, sự dốt nát, hèn hạ và ích kỷ đến độc ác, là một năng lượng tệ hại tàng trữ trong máu người ta. Chỉ cần có cơ hội là năng lượng đó được giải phóng và nếu được giải phóng hàng loạt sẽ trở thành tai họa, không kém những vụ nổ hạt nhân.

Tôi muốn tranh luận với ông. Chợt nhà văn nghiêng người, trật vai áo trước mặt tôi. Một vết sẹo rất sâu hình quả bàng đứt nét trên cánh tay ông. Vết răng cắn. Mắt ông tối đi, sượng sùng, đau đớn. Cặp mắt lão Thự khi kể hết câu chuyện. Tôi đã hiểu. Từ đó, tôi không tiếp tục quan hệ với ông nhà văn, và cũng không bao giờ còn đọc ông nữa.

Đó là chuyện về sau; còn lúc này, nhà văn lặng lẽ nhấm nháp cốc rượu quen thuộc, Vodka Smirnoff - Nỗi buồn Nga. Nhưng là nỗi buồn cưỡng bức, chốc lát.

Về phần mình, tôi tự hỏi: Nếu tôi cũng ở trên đảo Khổ Qua vào thời đó, và mang trên vai một vết cắn; thì sau đấy tôi đã một mình trong đêm với con thuyền mỏng manh vượt qua eo biển đen ngòm cuồn cuộn sóng ngầm và bầy cá mập hung dữ, như vượt qua địa ngục để tìm em?...


hainam4u @ Last updated 21/11/04 22:42
Go to my homepage at http://4u.jcisio.com