ở Huyền Đô có phủ Tường Vi - nơi hoàng thân Dĩ Cương và những hoài niệm u ám thống trị, biến cái phủ này thành một cỗ quan tài chưa đậy nắp. Nguyên ông hoàng này có ba người con trai: Quán Tưởng - Quán Sinh và Quán Thức. Người con lớn sang Tây Dương du học, rồi nhập tịch "làng Tây" và trở thành một chuyên gia khả kính trong một Đài thiên văn khá nổi tiếng. Nghe nói ông này đã từng có công trình khảo cứu được đăng tải trên các tạp chí khoa học danh giá nhất Tây Dương. Người con thứ Quán Sinh biến khỏi Huyền Đô từ sau vụ gian díu với một cô gái điếm và có một cậu con trai. Người con út cầm tinh con "sĩ", chán ghét lối sống tù túng cũng đã bỏ nhà biệt tích từ năm mười sáu tuổi, lang thang khắp xứ, làm một kẻ phiêu bạt bị cuốn theo thời cuộc và binh lửa, hết cầm cây cọ lại cầm lấy cây súng làm một chiến binh nhưng suốt đời chỉ bận rộn với việc chối bỏ cái gốc gác vương giả của mình. Ba anh em họ khác nhau từ tính cách, diện mạo, thân phận đến học vấn, chỉ giống nhau một điều duy nhất: cả ba đều thuộc về cái vương triều đã tiêu vong cách nay vài thập niên. Nói theo kiểu văn sĩ H..., họ thuộc về một thế hệ bị thất lạc!
Hiện giờ trong phủ Tường Vi, hoàng thân Dĩ Cương sống với lão Đinh Đam, đứa cháu nội (con của Quán Sinh và cô gái điếm) và một con chó đen cũng giống đực.
Xưa kia, khi còn trẻ, hoàng thân đã từng nổi tiếng trong số những khách phong lưu thưởng thức cái thú ngủ đò trên Mộ Giang...
Một con đò nhỏ sẽ rước khách ra "tòa thanh lâu" bồng bềnh giữa sông. Khách lên rồi, ông chủ đò ân cần mời khách vào khoang trong với nàng kỹ nữ. Vách khoang gỗ khảm trai hoặc xà cừ thành bức tranh liên hoàn mô tả tích truyện "Bát tiên quá hải", tuy không có hình lõa thể nhưng lại vô cùng khêu gợi ý tình nồng đượm. Kỹ nữ e lệ nhìn khách. Chén rượu đưa cay, khách cầm roi chầu bằng gỗ nguyệt, đánh vào chiếc trống nhỏ bưng da trâu, tang bằng gỗ mít.
Nàng ngồi vào chiếu nhưng chưa hát ngay, tay cầm sênh phách, ông chủ đò làm kép ôm đàn đáy, nghe khổ trống "sơ cổ" ba tiếng trước khoan, hai tiếng sau gấp, rồi qua khổ "tòng cổ", "trung cổ" và "thôi cổ" hai tiếng khoan thai như ngầm ý giục người ca. Kỹ nữ thoạt đầu ngâm "sa mạc" xong hát sang "tì bà" thì gõ phách rung. Khổ phách không thừa không thiếu, nhịp với đàn, hòa với ca. Tiếng phách nhẹ nhàng thanh thoát, khi thì gấp như chim yến hót dồn, lúc lưa thưa như tiếng hạt ngọc rơi xuống mâm vàng mới được coi là đạt tới tuyệt kỹ. Còn khách cầm chầu chấm câu văn hay điểm câu hát, chỗ ngắt phách thì đánh trống, chỗ nào hay thì gõ "cắc" một cái vào dăm trống để thưởng. Trống cũng có khổ như đàn như phách nhưng chơi biến hóa nhiều cách từ Phi Nhạn, Xuyên Tâm đến Thượng Mã... Tâm hồn khách lâng lâng hòa đồng, hư tịch cho tiếng trống ghim vào tiếng đàn tiếng phách. Đàn khoan phách khoan thì trống khoan, đàn mau phách mau thì trống mau. ấy là chưa nói đến tay trống tài hoa biết thưởng chữ, thưởng hơi, thưởng đàn, thưởng phách. Tâm thế sao hiện ra trong tiếng trống làm vậy. Đĩnh đạc, ly kỳ bay bướm hay tao nhã... Nghe tiếng trống, người lão luyện đoán được tư cách vị khách đêm.
Roi "chầu như chắp liền xương thịt với bàn tay, ngón tay, phát lộ qua bẩy khổ trống, hết "tom - tom" đến "tom- tom- tom"... rồi "tom-tom-tom-chát" và "chát-chát-chát-tom" phụ họa hồn tình lai láng:
Sầu ai lấp cả vòm trời.
Biết chăng chăng biết hỡi người tình chung.
Sầu trường mang mang tắc thiên địa.
Giống ở đâu vô ảnh vô hình.
Khéo ngẩn ngẩn ngơ ngơ đủ chứng.
Hỡi trăng gió, gió trăng hờ hững
Ngắm cỏ hoa hoa cỏ ngậm ngùi...
Trăng gần xế, nàng chuyển giọng hát bài ca kể tên các món ăn. Khách ưa món nào, gõ vào tang trống, người phục dịch bên ngoài biết ý bưng món ấy ra. ăn một chút cho ấm bụng rồi khoan khoái ngả mình xuống nệm êm, đầu gối lên gối cỏ ủ giấy ướp hương bên dưới. Tùy khách ưng mầu gì có bao gối mầu đó và cả mùi hương cũng vậy, khách thích mùi hương lài, hương chanh, hương bưởi hay hương bồ kết - hương nhu... cũng vui lòng chiều khách. Ông chủ đò lui ra, trong khoang riêng còn lại khách và kỹ nữ thủ thỉ giao tình...
Trước khi từ biệt nàng, bước lên bờ về với dòng sinh hoạt thường nhật, khách ung dung tự lột bao gối mình vừa dùng trong đêm, lặng lẽ thả xuống dòng sông Mộ Giang. Thôi nhé, quên đi, đời như mộng ảo "thân như bóng chớp chiều tà", xá chi một đêm chăn gối. Mai, trên bao gối mới, mầu gối khác, mùi hương khác, một người khác sẽ đến, sẽ ca, sẽ chập chờn mộng ảo, rồi sẽ lại bỏ đi... Không ai phải ngửi mùi tóc, mùi mồ hôi của ai để bợn nghĩ đến thân phận bọt bèo của kỹ nữ và những cuộc vui chốc lát trong đêm Mộ Giang!
Cho đến một ngày kia, vị hoàng thân trẻ tuổi tình cờ dạo bước dọc bờ Mộ Giang, sửng sốt nhìn thấy đám con cái dân chài lội xuống dòng nước giá buốt, tranh nhau vớt những cái bao gối đang trôi lềnh phềnh trên mặt sông. Đi tiếp nữa, ông giật mình phát hiện ra những chiếc bao gối khác cũng đang được phơi la liệt trên bãi. Hóa ra lũ trẻ đói rách vớt những chiếc bao gối của ông và những khách làng chơi về giặt, phơi khô may quần áo mặc! Từ đó tự nhiên ông mất hẳn cái thú "ngủ đò" và "rũ gối"...
Mỗi lần đối diện với ông, người ta có cảm giác như bộ giây cót của đồng hồ không nhả ra mà đang cuốn lại khiến kim đồng hồ quay ngược chiều về quá khứ!
Hiện trạng đó, cũng là một cách thức quay mặt của con người tránh trớ những sự thực đau buồn, cái mà từ đó nảy sinh ra "uyển khúc ngữ pháp"- theo đó, người ta gọi chệch "tên cúng cơm" của sự chết là "an nghỉ", trong cái thế giới có nhưng không thật này, sống hôm nay nhưng hướng về hôm qua với bao sự vẽ vời, sơn son thếp vàng, cũng chẳng khác gì cài hoa điểm ngọc cho bộ xương khô, đeo xạ hun lan cho túi da bẩn thỉu đựng thân xác đã thối rữa.
Ông còn sống sờ sờ ra đấy trên phương diện sinh học, nhưng thực ra ông chỉ vật vờ trong cảm thức chết:
Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì...
Ông thường xuyên rơi vào trạng thái "Thiếu Nương ly hồn". Xưa Trương Dật đời Đường có cô con gái xinh đẹp là Thiếu Nương, ông hẹn gả nàng cho Vương Trụ. Sau này ông nuốt lời hứa, định gả Thiếu Nương cho người khác. Trương Dật đưa con gái đi thuyền về kinh, nửa đêm nàng nhảy xuống sông, quay lại tìm Vương Trụ rồi dẫn nhau trốn vào đất Thục năm năm, sinh hạ được hai con mới dẫn con về thăm cha. Trông thấy Thiếu Nương ngoài cửa, ông hết sức kinh dị, sợ hãi, con gái ông đã ốm năm năm liệt giường liệt chiếu. Nhưng người ốm trong nhà đã vùng dậy, chạy ra ôm lấy "Thiếu Nương" chập vào nhau làm một!
Ông đã "ly hồn" để nhục thân ở lại trong phủ Tường Vi chờ ngày quá vãng vàng son hồi cố. Nhưng ông quên mất rằng:
Thế sự thao thao hồn bất cố
Tịch dương tây khứ, thủy đông lai...
Đấy là vài nét phác họa đời sống nội tâm của hoàng thân Dĩ Cương.
Phải, ông đã nhảy ra khỏi dòng đời để dan díu với quá khứ ở cõi vô minh.
Vị hoàng thân tài hoa thuở ấy, chìm đắm trong tuồng ảo hóa, trùng trùng lớp lớp phù du, bỗng muốn tìm về "mười hai nhân duyên". Tọa vong. Một trăm năm trong một khoảnh khắc bỏ quên. Về coi "Tàng thư lâu" với chức "Hàn lâm viện cung phụng", để từ đó mắt lòa dần bởi Tứ Thư- Ngũ Kinh, tai điếc dần vì mải nghe Lục Gia cãi nhau chí chóe suốt hai ngàn năm.
Còn lão Đinh Đam bằng con đường nào có mặt trong phủ Tường Vi?
Thuở niên thiếu, ban ngày Đinh Đam theo cha và các anh chị, em (y là con út) dắt díu nhau, tay bị tay gậy đi ăn mày ở Ngã Ba Nê. Tối đến, mò bằng được đến chỗ gánh hát rong biểu diễn, vừa xem vừa học lỏm bài bản. Rồi cũng tập tành lén lút với nhau, nhặt nhạnh những hài giáp mũ mãng rách nát, hư xấu của gánh hát thải ra, chắp vá lại thành đạo cụ. Cũng căng màn, trải chiếu, đánh trống, thổi kèn gọi đám trẻ con, ông già bà cả ở Ngã Ba Nê đến xem "gánh hát ăn mày". Tiếng trống chầu dần dà thấm vào máu y như một thứ men cuồng dại, mỗi lần tiếng trống rạo rực ấy vang lên, trong người y như có ma quỷ hành, chân tay ngứa ngáy, ngực nóng sôi chỉ muốn cắm đầu lao tới chỗ dựng rạp.
Có lần y lên cơn sốt rừng phải nằm nhà. Cha y không nỡ bỏ con một mình, cắn răng không đi xem hát. Nhưng khi tiếng trống chầu gióng lên hồi "khai trường" như giục giã những khán giả chậm chân hãy mau mau vào rạp, cha con y ngất ngư, nhấp nhỏm trên ổ rơm. Một chập sau cha y chặc lưỡi khen:
- úi chao ôi, gánh hát này hát hay thiệt!
Y ngơ ngác, hoài nghi nhìn cha:
- Cha đang ngồi nhà làm sao biết được hay dở?
Cha y quắc mắt khinh bỉ nhiếc y:
- Mày ngu quá, làm con thằng hành khất cũng không đáng. Mày không nghe tiếng trống chầu hỉ? Roi trống điểm khuyên đã giòn dã chưa, thằng tai thối kia?
Sau này lớn lên, y càng bị mãnh lực ma quái của tiếng trống bịt da trâu bình thường ấy lôi cuốn vào mê cung của cái nghệ thuật- tín ngưỡng tôn giáo- Hát bộ. Y mới hiểu tự thân nhạc trống đã là một nghệ thuật vừa bao dong vừa khắt khe, vừa hòa đồng đại chúng vừa cao nhã, tế vi. Đó là nghệ thuật hướng dẫn một nghệ thuật khác và dạy luôn cho những kẻ bình thường thưởng thức cái nghệ thuật ấy.
Một bước ngoặt làm y đổi đời khi gánh hát nổi tiếng của lão nghệ sĩ Tâm Phượng từ Lãnh Phố đến Ngã Ba Nê dựng rạp biểu diễn. Xem mấy đêm liền, gánh hát đã đi rồi, y bỗng chán ngấy kiếp sống cái bang và cả cái gánh hát ăn mày của cha y. Mượn cớ theo một nhóm "đi điệu" lên thung lũng Cối Đá kiếm chút trầm hương, bán đi làm lưng vốn cho cha mẹ già héo sau này, y từ giã Ngã Ba Nê ra đi... Y có lên đấy tìm vàng thật nhưng không đủ kiên nhẫn lội rừng, y hăm hở chặt gỗ thuê lấy ít tiền công đủ làm lệ phí mò vào Lãnh Phố. Cuối cùng y đã toại nguyện... Lão nghệ sĩ Tâm Phượng chịu cho y nhập vào gánh hát của mình.
Thoạt đầu y làm chân khuân vác, dựng rạp mỗi lần gánh hát lưu diễn hay chạy việc vặt cho lão nghệ sĩ và Đào Xuân, người vợ trẻ kém ông gần hai chục tuổi. Dần dà mến chàng trai xuất thân ăn mày nhưng đam mê nghệ thuật và thông minh, Tâm Phượng bắt đầu dạy y học chữ nho, nôm, thơ phú, cách viết chữ chân- triện- lệ cùng hướng dẫn trò tập các vai kép, từ kép đi lớp không tên tuổi, kép em đến kép trắng, kép đỏ, kép xanh, kép đen... Thấy trò càng tấn tới, Tâm Phượng càng lao tâm khổ tứ rèn dũa thêm cho y. Hễ có dịp thuận tiện, ông tìm cách gửi Đinh Đam đến thọ giáo những đồng nghiệp lừng lẫy tiếng tăm nhất của mình. Với mỗi ông thầy mới này, y được học thêm từng món sở trường của mỗi người và biết thêm vô khối những giai thoại trong làng xướng ca để rồi cuối cùng, chính y cũng trở thành một giai thoại khác thường!
Y học vai võ với thầy thành Chánh Tưởng. Khi còn là kép, ông này đã từng diễn ở Duyệt Thị Đường cho vua ngự lãm. Vua khen hay, sắc phong cho ông hàm cửu phẩm. Ông hí hửng mang bằng sắc về trình cố hương khấp khởi hãnh diện "y cẩm hồi hương". Nhưng làng ông không chịu chấp nhận hạng "xướng ca vô loài" như ông lại leo tót lên hàng danh giá như vậy. Vậy mà ông cắn răng chịu nhục, phép vua thua lệ làng mà!
Y học vai lão văn- với thầy Năm Phu. Lại một giai thoại khác. Năm Phu cũng diễn cho vua xem lớp tuồng "Tiêu Tán ăn gan kẻ thù". Nhà vua hài lòng thấy ông diễn cảnh ấy khiến cái Đẹp, cái Hùng lấn át được cảm giác dã man, ghê rợn, bèn thưởng cho nghệ sĩ mấy tiếng trống chầu giòn tan, lại gọi quan Bộ Lại ghi tên ông vào sổ với hàm "bát phẩm ca công". Cao hứng quá, Năm Phu cương thêm cảnh Tiêu Tán ăn nhầm phải ruột già của kẻ thù, vội lắc đầu khịt mũi đưa tay xua xua mùi thối... Vua gõ vào dăm trống đến "cắc", một cái, chê Năm Phu làm bẩn sân khấu, cách tuột luôn hàm "bát phẩm ca công" vừa thưởng xong...
Y còn học múa với Phó ca Lương. Thầy Ba Đâng dạy y lướt hia bay bướm như con thuyền lướt trên sóng lừng. Y học diễn xuất nét mặt với Cửu La, học cách luyện mắt để diễn vai Tôn Quyền với thầy Quyền Phong. Trôi nổi giang hồ, y thành thạo cả nghề bốc thuốc, xem phong thủy, tướng số và võ nghệ.
Tuy vậy y vẫn luôn mong ngóng ngày trở về tổ ấm cũ, nơi ông thầy tin tưởng, thương yêu y hết mực và ánh mắt trìu mến của Đào Xuân không ngớt ám ảnh tâm trí y. Tâm Phượng mừng rỡ đón đứa học trò cưng quay về gánh hát với tư thế chững chạc, bản lĩnh nghề nghiệp vượt hẳn những bạn cùng lứa trong gánh hát. Y bắt đầu nổi tiếng với các vai chính. Đào Xuân cũng vừa tới độ chín của tài năng. Nàng sắm vai vợ Địch Thanh trong vở "Ngũ Hổ", tới chỗ nhân vật mong ngóng chồng nơi biên tái, nàng ca xuất thần bốn câu:
Nghe con cuốc gọi sầu mấy tiếng
Khiến cho ta nhớ bạn ngọc nghìn trùng
Giọng đỗ quyên kêu khóc giữa đêm đông
Hồn hồ hiệp mơ màng trong trướng ngọc...
Khán giả chết lặng vì cảm xúc ai oán, bi thương trong tâm trạng người đàn bà yêu chồng tha thiết. Một người không chịu nổi, đứng vụt dậy vừa khóc vừa nói:
- Thôi bà đừng buồn nữa, rồi tôi tìm thằng cha ấy về cho bà?
Rồi chính nàng cũng bật lên khóc. Ai mang nổi "thằng cha ấy" đến cho nàng khi hắn chẳng ở nơi biên tái xa xôi mà nằm ngay trong tầm tay nàng. Nhưng nàng không được phép đến với hắn!
Không một ai, ngoài nàng và Đinh Đam biết rõ mối tình si mê, câm lặng giữa hai người đang cháy âm ỉ trong tim họ. Sau mỗi đêm diễn, chồng nàng nằm vật trong túp lều sơ sài, kiệt sức vì những cơn hen suyễn kéo dài. Lắm khi người ông như gãy làm đôi trong khi ho dữ dội. Nàng tận tình chăm sóc thuốc men, xoa bóp cho chồng nàng, nhưng con tim thổn thức, khát khao sức hòa điệu thanh xuân lại hướng về bên kia tấm màn mỏng, nơi chàng nghệ sĩ cường tráng của nàng đang nằm vuốt bụng thở dài... Rồi suốt đêm, khi lão nghệ sĩ tạm qua cơn đau, ngủ lịm với những tiếng rên khò khè trong cổ họng, nàng trăn trở và nghe rõ cả tiếng "người tình câm" của nàng đang lăn qua lăn lại trên giường bên kia. Nàng muốn vùng dậy, chạy sang với y bất chấp đạo lý, tai tiếng nhục nhã. Nàng cố dằn lòng... Nhưng không nổi. Nàng trườn sang bên kia tấm màn mỏng. Đinh Đam ghì chặt lấy nàng...
Nàng không nỡ phản bội chồng nàng, người đã thương yêu, dìu dắt nàng. Nhưng ngọn lửa tình oan trái không ngớt thiêu đốt tâm hồn ham sống hết mình, ham yêu đắm đuối của nàng. Sau đêm ấy, nàng cố trốn chạy mọi cơ hội có thể giáp mặt y. Nàng từ chối khéo léo mỗi lần phải đóng vai đào chung với kép Đinh Đam trong một vở tuồng nào đó. Thậm chí, nàng tránh mặt cả lúc chồng nàng tập dượt với đệ tử ruột của ông. Tâm Phượng say mê nghề nghiệp, lo vật lộn kiếm miếng ăn nuôi cả gánh hát, làm sao hiểu nổi tấn bi kịch đang ngấm ngầm xảy ra ngay bên ông?
Cho đến ngày người ta tuyển chọn một số đào kép xuất chúng nhất để đưa vào đoàn tuồng hoàng gia, vợ chồng Tâm Phượng lọt qua vòng đầu. Ông mừng rỡ và không khỏi có chút hãnh diện trẻ con trước Đinh Đam. Lâu nay, khán giả bắt đầu thích những vai kép do Đinh Đam đóng hơn ông. Ông chưa nghe thấy một lời bình phẩm, so sánh nào nhưng tự ông cũng hiểu, thời của ông đã qua rồi. Giờ là thời của y.
Đêm ấy, lúc sắp ra trình diễn vở tuồng quan hệ đến việc lựa chọn sau chót, lão nghệ sĩ bỗng phát hiện thấy đứa học trò yêu của ông đang ngồi khóc trong góc vắng. Ông bừng tỉnh, vốn phóng khoáng và thương đệ tử, lão nghệ sĩ giả cách đau bụng bất thần, xin quan trên cho Đinh Đam đóng thế vai của mình.
Mới đầu Đào Xuân cũng ngờ ngợ đoán ra ý định cao thượng của chồng. Nhưng khi hồi trống khai trường đã dứt, khởi diễn cặp đôi với Đinh Đam, nàng quên tất cả để sống với niềm đam mê sôi sục bên trong và hóa thân vào tấn tuồng mà phút chốc đã trở thành cõi mộng cho tình yêu thầm kín, mãnh liệt của nàng bộc lộ bằng hết. Đinh Đam đã không phụ lòng nàng, trổ hết ngón nghề điêu luyện và bừng bừng ngây ngất xuất thần nhập hóa trong vai kép mà lão nghệ sĩ vừa nhường cho y. Người tung kẻ hứng nhịp nhàng như đôi uyên ương vờn múa bên nhau, khán giả dường như bị hớp hồn, người cầm chầu múa dùi trống, tay phải hạ một tiếng khen sảng khoái trên mặt trống thì tay trái bốc thẻ tre (mỗi thẻ là một quan tiền thưởng), ném lên sân khấu, xong lại ném "roi chầu" sang tay trái đánh tiếp để tay phải bốc thẻ ném theo... Tâm Phượng ngồi dưới bàng hoàng nhận ra, tất cả những gì vợ ông phải giấu kín trong lòng bấy lâu nay giờ đây được nàng thổ lộ trọn vẹn tình yêu nồng cháy trên sàn diễn. Rõ ràng tình yêu ấy không hướng về ông, mà hướng về chính gã đệ tử "truyền nhân y bát" của ông. Ông không đau bụng giả đò nữa mà đau thật, nỗi đau xé ruột trước nhân tình thế thái và nỗi tuyệt vọng. Nàng không yêu ông nữa... Nàng đã phản bội ông. Ông già rồi, tàn rồi, nàng trẻ trung, mạnh mẽ dường kia. Nàng trọng liêm sỉ, nhân cách đạo lý, chắc nàng chưa bao giờ có hành động "trên bộc trong dâu" với gã kia, nhưng linh hồn nàng đã rời bỏ ông để quấn quít với linh hồn gã trai xuất thân từ ăn mày đó... Lần này, gã không ăn mày tiền của, cơm gạo của thiên hạ, mà cướp giật tình yêu trong tay ông. Đau đớn, giận dữ, nhục nhã, ông cố nghĩ ra đủ cách lí giải để khinh bỉ, căm hận tên học trò "ăn cháo đá bát" khốn nạn. Nhưng rút cuộc, nhìn lên sân khấu, ông không thể không cay đắng thừa nhận rằng, Đinh Đam xứng với nàng hơn! Nàng như vừa được chắp cánh bay bổng lặng thinh không rực rỡ chói lòa, bỏ lại dưới mặt đất nhớp nhúa mọi hờn ghen, đố kị. Nàng đang yêu và được yêu như nàng hằng mơ ước. Chao ôi, giờ này trong cơn tuyệt vọng, trái tim già nua của ông bỗng nhiên mệt lả như không muốn đập thêm nhịp nào nữa. Ông chợt thấm thía ý nghĩ thâm thúy, ảo hóa của câu đối treo trước rạp hát của vị "hậu tổ tuồng" họ Đào:
"Thiên bất dự nhàn, thả hướng mang trung tầm tiểu hạ
Sự đô như hí, hà tu giả xứ tiếu phi chân"
(Trời chẳng cho nhàn, đến chốn hoang tìm chút rỗi
Trò đời như tấn kịch, ai đến xứ giả lại cười cái không thật)
Tiếng trống chầu tán thưởng, tiếng khán giả trầm trồ thán phục chợt nhạt nhòa như thanh âm vọng đến từ vô biên xứ nào đó, những giọt lệ đặc quánh ứa ra trên mí mắt nặng trĩu, người nghệ sĩ bỗng thấy châu thân ông đang phân rã... Trái tim ông bị một vết thương chí tử đến nỗi nó quỵ hẳn xuống như một con ngựa già còm cõi buộc phải kéo cỗ xe quá nặng lên dốc núi thăm thẳm, gập ghềnh.
Nửa đêm lão nghệ sĩ trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay người vợ đã bỏ rơi ông. Nàng vật vã khóc lóc, chỉ nàng và Đinh Đam hiểu rõ ai đã giết ông không gươm giáo, thuốc độc. Mắt người vừa khuất cứ mở trợn trừng trong bóng đêm. Đinh Đam khiếp hãi quỳ xuống bên thi hài sư phụ, run rẩy vuốt mắt cho ông, thì thầm sám hối:
- Trăm lạy thầy tha cho con tội vong ân bội nghĩa và loạn luân.
Cặp mắt ấy vẫn mở sâu hun hút, đôi lông mày lưỡi kiếm dựng ngược lên khiến gương mặt người chết sừng sững hiện ra trong diện mạo hãi hùng của Tử Thần. Y sợ quá thụt lui lại nhường chỗ cho Đào Xuân. Nàng thẫn thờ nhỏ nước mắt hối hận xuống đôi mắt tức tưởi kia, giọng nghẹn ngào:
- Thôi, mình sống khôn chết thiêng hãy tha thứ cho em, chính em đã hại mình.
Đến lời tận cùng ấy, cặp mắt của người nghệ sĩ mới chịu khép lại!
Đúng là trò đời như kịch. Ra tới Huyền Đô, chỉ một mình y được tuyển vào Thanh Bình Thự (Nhà hát tuồng hoàng gia). Còn Đào Xuân ôm mối hận tình, lủi thủi quay về Lãnh Phố. Y hẹn nàng: sau ba năm mãn tang chồng nàng, y sẽ về tìm nàng gá nghĩa trăm năm. Nhưng vốn là kẻ mê lụy giữa Huyền Đô phồn hoa, y lao vào con đường công danh hoạn lộ bằng cách ỷ tài.
Lại một lần nữa, y may mắn thọ giáo quan thị lang Bộ Lại, bậc thầy của thầy y trước kia. Y lăn xả vào học những tinh hoa của nghề hát và ra sức che giấu cái lai lịch nghèo hèn của y nơi Ngã Ba Nê. Y cấm tất cả cha mẹ, anh chị em, họ hàng của y đến Thanh Bình Thự tìm y. Chẳng bao lâu sau, bậc đại sư phụ của y ngán cảnh quan trường, mới ngoài ngũ thập đã làm đơn xin nghỉ hưu với lá đơn vẻn vẹn tám chữ:
"Tòng sự nhật cửu, thỉnh hứa hồi hưu!"
(Làm việc đã lâu, xin cho về hưu)
Các quan lớn trên Bộ giận kẻ xếch mé, ngạo ngược, đã không kể công lao lại còn không thèm xin xỏ ân huệ triều đình, bèn phê năm chữ vào lá đơn của ông:
"Đái nguyên hàm hồi quán"
(Giữ nguyên hàm về quê).
Đại sư phụ của y làm thơ diễu cợt lũ tiểu nhân:
Không răng nghĩ lại cũng không răng
Thua sút người ta một miếng ăn
Miệng đắng nguyên hàm nhai nhóp nhép
Không răng nghĩ lại cũng không răng!
Người còn làm hai câu đối tổng kết quan lộ phù phiếm nhố nhăng.
"Thế mà hay, gần ba mươi năm làm phủ huyện, tri tỉnh đường, theo về bộ ít lâu, gẫm lại có gì đâu, thói kiêu ma phú quý kiêu nhân, mặt mày bợm bãi".
"Rứa cũng tốt, ngoài năm chục tuổi, giữ nguyên hàm, ăn lương bổng, ngất ngưởng về làng mấy lúc, thôi còn mong chi đó, ơn trời phật cửu trường tại thế, "cái ấy" lòng thòng".
Y sẵn sàng học nghề của đại sư phụ, nhưng khí phách của người thì y không thọ lãnh nổi. Bấy giờ y còn bận làm đẹp lòng ông chủ mới ở Thanh Bình Thự, hoàng thân Dĩ Cương (hay còn gọi là Đội Cương). Có người kể rằng, kép Đinh nổi tiếng như vậy mà có lần ra sân khấu, toan mở miệng hát bỗng thấy đội Cương cầm chầu, sợ quá quên cả lời ca.
Vì sao có sự lạ ấy?
"Nội lực" của ông đội đã tới mức thượng thừa. Khi ông đội đã ngồi trước trống chầu, mọi sự diễn ra trên sân khấu không thoát khỏi con mắt nghề nghiệp lão luyện, tinh tế của ông. Đào, kép nào đuối sức, hát hụt hơi hay không "sát bờ sát góc" thì ông kịp thời hạ ngay một hồi trống vớt hơi. Tất nhiên muốn làm được như vậy, người cầm chầu phải cao tay, đoán trước lúc cần giúp đỡ chứ không lấp lên lời ca hoặc làm nhòe chỗ người ta luyến láy. Chính vì thế, ông đội thường cầm chầu tập vở mới cho Thanh Bình Thự. Lúc nào gặp phải ca công hát dở, ra trò quá vụng, ông đội lại bực mình ném cái roi trống và bịt mũi tỏ ý "ngửi không vào!".
Cũng may cho y, chưa lần nào y gặp trường hợp rủi ro như vậy. Ông đội cũng mến tài y, mỗi lần cần lựa người vào diễn trong cung, ông lại nhớ tới y. Vì thế y mới làm quen được một cung nữ. Đầu mày cuối mắt, chẳng ai phải nói gì nhiều mới hiểu bụng dạ nhau. Nàng thì đẹp hơ hớ ra đấy mà từ ngày được vời vào cung chưa một lần được chung chăn gối với vua. Y là hạng người đam mê, ham sự phiêu lưu lại không quên mình xuất thân hạ tiện, hễ có dịp là chơi chòi để tự túm tóc nhấc mình lên khỏi mặt đất. Bây giờ có dịp "phỗng" cả cung nữ của đương kim hoàng thượng, gì mà không hách!
Luật lệ trong cung cấm ngặt nghèo là thế, họ vẫn có cách qua mắt quân cấm vệ và những gã thái giám nanh nọc, tai quái để hẹn nhau tình tự trong lòng cống ngầm từ Tử Cấm Thành thông ra bờ sông Mộ Giang. Vài đêm một lần, chàng từ ngoài sông lóp ngóp chui vào miệng cống gặp nàng từ trong cung lặn lội ra...
Vô phúc cho họ là hôm ấy "vua điên" đang vi hành một mình quanh cung cấm bỗng thấy bóng người thấp thoáng dưới nước. Ngài định thần nhìn kỹ mới hay có người đứng dưới lòng cống. Bị trí tò mò thúc đẩy, ngài lần theo dấu vết. Té ra một cung nữ đang đến chỗ hẹn tự tình với một gã đàn ông. Nhận được mặt cung nữ rồi, ngài lẳng lặng hồi loan. Suốt đêm ngài trằn trọc. Ai biết ngài nghĩ gì về cuộc dan díu nhơ nhuốc kia của người cung nữ? Hẳn là hai kẻ gian phu dâm phụ khó tránh khỏi hình phạt thảm khốc theo quốc pháp!
Sáng hôm sau, ngài cho gọi người cung nữ phạm tội đến chỗ ngài. Người cung nữ quỳ thụp ngay xuống xin tha tội chết khi nàng vừa trông thấy sắc diện của vua. Ông thở dài, hỏi tên tuổi gã đàn ông đã tư thông với nàng. Nàng không dám giấu. Ngài cho gọi gã đến. Đinh Đam hồn bay phách lạc, vừa đi theo quân cấm vệ vừa đưa tay lên sờ cổ.
Trước mặt ngài, y rũ ra như một tấm giẻ rách, còn thảm hại hơn cả người tình của y. Y run đến nỗi không nói ra hơi, tay chân quờ quạng lẩy bẩy. Ngài ngự biết ngài không được phép tác thành cho hai kẻ tình nhân, làm như vậy sẽ dung túng cho người khác. Nhưng thương y là nghệ sĩ "ngựa hay có tật", ngài phán: tha tội chết, đuổi cả hai về quê cũ. Như vậy là ngài ngự ngầm bảo hai người cứ ra ngoài mà ăn ở trọn kiếp với nhau.
Y khấu đầu tạ ơn vua rồi lủi nhanh ra ngoài. Hoàng thượng sẵn sàng tha tội chết cho y, nhưng lũ thái giám lại không cao thượng như vậy...
Chờ cho cả hai dẫn nhau ra khỏi Tử Cấm Thành, chúng thuê tiền, bảo quân cấm vệ đón đường giết họ. Nàng cung nữ chân yếu tay mềm bị đập chết ngay. Còn y trong cơn tuyệt vọng, giở hết võ nghệ, sức lực chống đỡ. Mặc dù bị trọng thương, y vẫn cố lết vào phủ Tường Vi của ông đội Cương. Bọn cấm vệ sợ lôi thôi, bỏ đi. Hoàng thân Dĩ Cương kinh hoàng nhận ra y Đinh Đam thoát chết, nhưng cơn ác mộng sau trận đòn khủng khiếp và cái chết rùng rợn của người cung nữ bị đập vỡ sọ ngay trước mặt y, đã khiến y trở thành kẻ mắc bệnh "bức hại cuồng". Y luôn bị ám ảnh bởi nỗi lo sợ những người xung quanh chỉ chực săn đuổi và giết y. Cặp mắt mở trợn trừng, đôi lông mày lưỡi kiếm dựng đứng của lão nghệ sĩ Tâm Phượng khi lâm chung và cái đầu vỡ toang của người cung nữ không bao giờ buông tha những giấc ngủ chập chờn của y...
Và bây giờ, hơn bốn chục năm sau tai biến đó, y đã trở thành lão già độc thân, khật khùng trong phủ Tường Vi. Lão ở đó vừa như quản gia, vừa như đày tớ của một vương phủ đang đổ nát, chỉ chờ ngày đổ ụp, lại vừa như kẻ "tri âm" của ông hoàng Dĩ Cương, một con người chỉ sống vật vờ với những kỷ niệm vàng son của quá khứ!
Khi Quán Sinh còn sống ở phủ, lão Đinh và Quán Sinh rất ít khi trò chuyện với nhau dù rằng bao giờ, gián tiếp hoặc trực tiếp, lão cũng luôn luôn đứng về phía ông hoàng lêu lổng và phóng đãng này. Có thể vì họ quá giống nhau nên không chơi thân được với nhau. Nhưng lão đặc biệt yêu quý thằng bé Chi Nguyên, đứa con bất hạnh của Quán Sinh...
Thỉnh thoảng, Phi Nhị, một nhà sư trẻ tới phủ Tường Vi tán gẫu với lão Đinh. Lão trầm ngâm:
- Có lẽ tôi sẽ sa xuống A- tì địa ngục mất thôi chú ạ. Tôi đã gây nên không biết bao nhiêu nghiệp chướng ở cõi đời này. Nhưng tôi yêu nó quá chú ạ. Yêu phát rồ lên ấy. Tôi nói chuyện này chú đừng cười. Ngày thanh niên tôi theo học một ông thầy tuồng nhưng lại mê bà vợ trẻ của ông ấy. Vì vụ gian díu này mà ông thầy của tôi chết oan. Sau đó tôi lại phản bà ấy. Lăng nhăng với bà khác. Còn bà ấy tái giá với một người góa vợ. Hai người sinh được một đứa con trai. Gã này lớn lên lại say máu hát tuồng như mẹ. Gã cố sống cố chết lập một gánh tuồng. Nhưng gánh hát của gã vô danh đến nỗi ế ẩm, chẳng ma nào thèm đến xem hát. Gã liều mạng dẫn gánh hát của gã ra đây. Đất Huyền Đô càng oan nghiệt hơn, họ toàn dân sành hát tuồng, làm sao gã kiếm ăn nổi. Đói dài đói rạc, gã đến tìm tôi cầu cứu. Nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ, tôi phải giúp gã. Tiền bạc thì tôi không có, sức tôi thì già như ngọn đèn dầu sắp cạn. Nhưng tôi vẫn bảo gã dựng rạp, cứ quảng cáo với thiên hạ rằng "lão nghệ sĩ Đinh Đam'' tái xuất giang hồ trong vở tuồng Trương Ngáo. Chú nên biết rằng, vai này chỉ dành cho kép thượng hạng và phải không có râu. Tôi quyết định lên sân khấu lần cuối cùng. Tôi cạo sạch bộ râu mà tôi rất quý. Bao nhiêu tinh huyết, sức lực tôi dành hết cho đêm ấy. Khi tôi quay về phủ, con chó mực mọi ngày vô cùng yêu quý tôi; bỗng lao ra sủa ăng ẳng như cắn ma và đuổi theo tôi. Tôi cuống quít, giận dữ hét lên:
- Đồ súc sinh ngu đần, mày không thấy ông cố nội mày đây sao?
Mặc, nó càng đuổi gấp hơn. Tôi mà không nhanh chân nhảy lên bờ tường chắc đã bị nó cắn nát mặt. Lúc hoàn hồn, suy nghĩ lại tôi mới hiểu, nó không chịu nhận ra tôi là lão Đinh Đam của nó vì tôi đã mất bộ râu.
Thoắt đó mới khác nhau ở chỗ có râu và không râu mà tôi đã không còn là tôi nữa. Huống hồ "ông trời" đêm nay thò hai chân ra, ngày mai đã chỉ còn lại hai cái xương ống mục trong mả, còn ai nhận ra "ông trời " ấy nữa?
Phi Nhị nghiêm chỉnh coi câu chuyện kỳ quái của lão Đinh ngang một công án về tính cách vô thường của đời sống. Những công án đó chẳng bao giờ loại tây học có thể giải mã nổi.
Lên bảy tuổi, sống giữa hai ông già cô đơn cùng cực, cậu bé Chi Nguyên vẫn đinh ninh rằng, mẹ cậu chết ngay sau khi sinh ra cậu và cha cậu đi làm ăn xa biệt tích. Phủ Tường Vi được xây cho một vị hoàng tử, ông nội của cậu là cháu nội của vị hoàng tử đó. Và mai sau đến lượt cậu thừa kế cái phủ đệ này.
Đấy là tất cả những gì ông nội cậu và lão Đinh cho cậu hay về thân nhân và tương lai của cậu. Còn những chuyện tày trời khác thì cậu không biết, hoặc do hoàng thân coi là không liên quan gì đến phủ Tường Vi nên không muốn bắt cháu mình phải bận tâm.
Dường như cậu luôn luôn phải sống trong sương mù. Sương mù của huyền thoại do hai ông lão thêu dệt ra và làn sương mù vàng lởn vởn bởi vô số những hạt bụi gỗ bị mối xông, từ mái nhà rớt xuống như mưa phản chiếu trong ánh nắng quái chiều. Và trên những bức tường cũng lờ mờ những vệt vôi đen mốc loang lổ như những bức tranh vẽ bằng sương khói. Những ngôi nhà trong phủ đều được lợp ngói âm dương, thứ ngói khi đã mủn nát không biết lối nào chống đỡ với mưa gió. Thủng chỗ này dột chỗ khác. Nước mưa thấm xuống, ngấm vào những vệt mối xông nổi thành gờ trên tường, đan cài nhau tạo ra những thứ chữ cổ quái hoặc giống như những vết rạn nứt bí hiểm trên mu rùa. Vào lúc chập choạng tối, nếu phải đi dọc bức tường ấy, thường cậu nhắm tịt mắt lại phóng tới, có khi và cả đầu vào cột nhà.
Khu vườn rộng hơn hai mẫu tây được bao quanh bằng những bờ tường đá cà lôi mầu hung đỏ nay đã xỉn mầu đen cũng âm u không kém. Cây cối um tùm, pha tạp hàng trăm thứ không tên tuổi, không hàng lối, không được ai chăm sóc đã trở thành vương quốc của chim chóc, sâu bọ và lá mục. Mùa nước dâng, rắn bò lên cả ngọn cây, còn bầy rết đan thành những tấm thảm đen nhỏ rập rình trên mặt nước mỗi khi gió thổi làm gợn sóng Mộ Giang. Sức nước xói lở từng mảng lớn, bức tường đá phía bờ sông đã nứt toác ra, lún xuống và ngập trong nước.
Đã thế, mới bảnh mắt, ông nội cậu đã tháo xích giải thoát cho con chó đen và dùng ngay sợi xích đó xích chân cậu trong phủ thờ. Con chó đen nhảy quẩng lên theo lão Đinh, ra vườn, săn đuổi lũ chuột trong những lùm cây rậm rạp. Lão đi tuần một vòng quanh vườn nhưng chẳng biết làm gì để cứu vãn khu vườn đang chết. Gương mặt lão rầu rĩ, trầm trọng như một đấng quân vương bị phế truất.
Còn trong phủ thờ, ông lão điếc đặc, mắt gần như mù lòa yên tâm với sợi xích chó, bắt cháu nhai từng chữ Tam Tự Kinh bất chấp mối mọt đang gặm nhấm tất cả những gì có thể gặm nhấm được của phủ thờ.
Trong ban mai ảm đạm, cậu lại thấy buồn ngủ rũ mắt vì chính cái giọng ê a lải nhải của mình:
Thiên-trời, địa-đất
Cử-cất, tồn-còn
Tử-con, tôn-cháu
Lục-sáu, tam-ba
Gia-nhà, quốc-nước
Tiền-trước, hậu-sau
Ngưu-trâu, mã-ngựa
Cụ-cựa, nha-răng
Kiêu-căng, tẩu-chạy
Bái-lạy, quỵ-quỳ
ái-yêu, tăng-ghét...
Rồi cậu ngoẹo đầu ngủ gục trên cái bàn thấp lè tè. Ông lão tưởng đứa cháu nội vẫn đang cùng mình bước giật lùi khỏi hiện tại, gương mặt nhăn nheo lốm đốm da mồi, chợt rạng lên như vừa nhìn thấy ánh hồi quang vàng son.
"Một chiều thu, ta vừa bằng tuổi con bây giờ, đứng dưới chân ngọn Cô Phong nghe gió thổi như khóc. Khói trầm bay dạt hư ảo, bóng tùng xiêu đổ trên cỏ rối dưới ánh trăng tà huy. Đức kim thượng đứng dưới tán bốn chiếc lọng vàng, ngậm ngùi than thở bên phần mộ của ông nội ta. Dễ người xưa làm thơ cho ta khóc người hôm nay sao?
"Thế sự thao thao hồn bất cố
Tịch dương tây khứ thủy đông lai..."
Một chú muỗi ngày chích vào da mặt cậu, cậu choàng tỉnh, ngơ ngác nhìn những giọt lệ đặc quánh đọng trên mí mắt sùm sụp của ông nội cậu.
Rồi cứ mỗi năm, vào mùa lũ, đúng cái ngày mà xưa kia, cuốn Kim Sách bị thất lạc, ông lão lại ngồi khóc hu hu vì đau khổ và hối hận. Ông lão còn dặn cháu:
- Con ơi, có mỗi cuốn Kim Sách cho con thừa kế thì mất trộm rồi. Lớn lên, bằng cách nào con cũng phải kiếm được tiền, sắm cuốn Kim Sách mới. Con có nhớ lời ta khẩn cầu không?
Hoàng thân chỉ yên tâm khi thằng cháu ấp úng gật đầu.
Bản thân quá khứ đã thành mộng mị nay ông lão nửa mê nửa thực lẫn lộn, bước giật lùi về phía phần mộ đang đợi mình sau lưng, miệng không ngớt "trong mộng nói chuyện mộng". Đó là tâm bệnh của ông. Căn bệnh ấy truyền nhiễm sang cháu và biến chứng thành mặc cảm của một đứa bé có hai ngón chân cái giao nhau.
Nếu cứ để cậu tự nhiên lớn lên, hai ngón chân choãi ra như hai càng cua ngang ngạnh chĩa vào nhau, cùng lắm chỉ làm cậu khó chịu mỗi lần phải lựa một đôi giày thích hợp với bàn chân dị dạng của mình. Nhưng đám bà con trong hoàng tộc lại nhìn những ngón chân ấy với một sự chú ý thái quá, không kinh tởm, soi mói cũng thương hại hoặc diễu cợt độc ác. Thậm chí họ còn cấm con cháu họ giao du với "thằng bé chân quỷ trong phủ Tường Vi".
Những chuyện đó làm cậu luôn luôn đề phòng người lạ, né tránh và chột dạ. Cậu vốn đã ốm yếu, bất túc về mặt tinh thần, lại đặc biệt nhạy cảm với những biểu hiện chứa đựng khả năng nhục mạ, ám chỉ thân phận đáng xấu hổ của cậu.
Có lẽ vì thế năng lực trí tuệ của cậu thể hiện hết sức bất thường, có lúc cậu tỏ ra thông minh, nhưng ngay sau đó lại tỏ ra ngu độn thảm hại. Đám họ hàng ác khẩu lại càng có dịp bình phẩm, phán xét, rằng đó là dấu hiệu của sự thoái hóa dòng giống. Và chính thằng bé này sẽ khởi đầu một thế hệ hạ đẳng.
Dù điếc, ông nội cậu cũng không được yên. Người ta tìm hết cách buộc ông lão phải nghe thấy những lời đồn đoán ấy. Ông lão uất lên tận cổ như bị một cục đờm chẹn ngang lấy họng mà không khạc ra được. Càng tức, càng thương cháu, ông lão lại càng cố thủ trong phủ. Ba người lủi thủi với nhau, thương xót lẫn nhau, nhưng mỗi người ôm một giấc mộng khác nhau. Cậu bé thường trốn vào một xó tối vắng vẻ, cố nong đôi chân quỷ quái vào một đôi giầy chật cứng, không dám bật lên tiếng khóc.
Chẳng biết lấy gì an ủi cháu, ông lão đưa cậu bé vào cuộc phiêu dạt giữa những mảnh vỡ hào nhoáng của lịch sử như những ngư phủ mất hướng trong bão tố, ngắm nhìn ảo ảnh lâu đài mù mịt trên biển.
"Mười sáu tuổi, Đức tiên đế đã giữ ấn kiếm, nắm binh quyền chống chọi với tiếm vương để khôi phục cơ đồ của tiền nhân. Đại cuộc thành công, quần thần xin tôn lên ngôi để định nhân tâm, ngài miễn cưỡng nghe lời, lựa ngày cải nguyên ngự triều thọ hạ... Rủi xảy ra hỏa hoạn cho đám nhà dân gần hoàng thành, ngài tự đốc xuất dân binh đối phó, chính ngài cũng xuống Mộ Giang múc nước lên dập lửa. Chẳng may dẫm phải mảnh sành, toác chân chảy máu, ngài thản nhiên lấy bùn đắp vào vết thương như xưa kia ngài vẫn làm vậy với các thương tích trong trận mạc. Nhưng lần này vết thương sinh mủ, không chịu lành. Ngài ung dung gọi thái y ngự viện. Ngự y chánh tâu: khi trước hoàng thượng tung hoành điếu phạt, sức đương cường, máu huyết phương cương, đất sa trường rộng lớn, phù sa mới mẻ đâu có tù đọng lưu cữ như bùn Mộ Giang hiện giờ. Ngài chịu lý ấy...".
"Tiếp đến ngài không khỏi lo nghĩ tìm người kế vị. Nguyên con trưởng của Đức thế tổ đã được lập lên ngôi thái tập nhưng chẳng may thất lộc. Theo lệ "trọng thưởng" thì ngài phải trao ngôi báu cho cháu đích tôn của mình (tức con trai cả vị thái tập đã mệnh chung). Nhưng ngài không quên lời đức Khổng dạy trong thiên Khang Cáo, Kinh Thư: mệnh trời không nhất định, thiện được, bất thiện thì mất. Thầy Mạnh Tử cũng dạy: bậc thiên tử chẳng thể lấy thiên hạ đem cho người khác. Người bèn lập con trai thứ tư của mình làm đông cung thái tử, bởi lẽ: nước nhà mới yên phải chọn người lớn tuổi cầm quyền, chẳng nên dùng kẻ thơ ấu. Đề phòng cái họa đàn bà làm hỏng việc nước, ngài còn dặn khi đông cung thái tử lên ngôi cửu ngũ không được lập hoàng hậu!".
"Bấy giờ đông cung thái tử đã có mười con trai, ngày ất Tý, tháng Hợi, lại một hỉ sự nữa, thêm một - trai chào đời. Đấy chính là cụ cố tổ năm đời của con, vị chủ nhân đầu tiên của phủ Tường Vi. Vừa đầy tháng, người đã được theo đông cung và mẹ vào cung làm lễ "Bảo kiến". Chớm tới thềm điện, pháo nổ tưng bừng, nhã nhạc chào mừng rộn rã khắp cung đình. Hoàng hậu nhìn cháu mừng rỡ khen gương mặt cháu giống ông nội. Đức thế tổ ngự đến, chỉ cho mọi người thấy mấy chấm ruồi son giữa ngực cháu rồi đưa tay bồng cháu. Ngài ban: Ta mong cháu sau này được cầm ấn son, lấy văn minh giúp đời, bởi thế ta đã ra lệnh làm lễ thượng lương lầu Khải Minh hôm nay!".
"Hai mươi mốt tiếng lệnh nổ tưng bừng. Cụ tổ con mới đầy tháng đã biết nghiêm trang lắng nghe hiệu lệnh... Ba tháng sau, Đức thế tổ mãn phần, Đức thánh tổ lên ngôi. Cụ cố tổ con nghiễm nhiên trở thành một ông hoàng. Và phụ vương ra lệnh xây riêng phủ Tường Vi cho người...".
Cơn lốc bất thần nổi lên, gầm rít làm rung chuyển cả phủ đệ. Gió vốc cát từ sông ném vào phủ thờ lạo xạo. Hai ông cháu vẫn ngồi trong mộng. Hình bóng ông lão chao qua đổ lại như quả lắc đồng hồ. Bất kể vòm trời vần vũ, sấm chớp đùng đùng ngoài cửa, cậu bé càng chìm sâu vào những câu chuyện của ông nội mà cậu chỉ hiểu láng máng. Cái mà người khác coi là chuyện huyễn hoặc không đáng tin lại sưởi ấm tâm hồn côi cút và khích động niềm hy vọng mơ hồ của cậu. Hiện tại cậu không có tuổi thơ, ông nội cậu lại rót đầy vào khoảng trống vắng đó bằng những hoài niệm.
"Một trăm năm trong khoảnh khắc "tọa vong"- ngồi mà quên tất cả. Ta một thuở chìm đắm trong dục lạc và tiếng trống chầu trong Thanh Bình Thự bỗng muốn quay về tìm "mười hai duyên khởi". Nguyên nhân của tất cả các pháp khởi lên từ một nhân duyên, đó là giáo lý của đấng Đại sa môn!".
"Bỗng ngày nọ ta như người mê ngủ vùng dậy từ đáy mộng khi được gặp vị Hiệp biện đại học sĩ kiêm Tổng đốc châu tỉnh. Người cho ta xem một bản văn viết bằng thứ chữ lạ lùng mà suốt đời ta chưa bao giờ được chiêm bái. Nét chữ bay bay, vờn múa như những ngọn lửa cháy. Ta tưởng chừng như thấy những bức họa được vẽ bằng ngọn bút thần diệu hơn là những con chữ bình thường. Ta thực chưa hiểu nghĩa lý của đoạn văn, nhưng hàng hàng chữ kia làm ta thấy khoảng khoát, ngây ngất. Đây là tiếng ta. Chỉ tiếc mỗi nơi thất lạc một mảnh, ba mươi lăm mẫu tự tan tác, không biết hồi nào mới tìm ra tung tích ngọn nguồn ráp lại thứ văn tự cổ của cha ông ta? Nước có chữ mà không giữ nổi chữ của mình, thử hỏi xưa nay không vong quốc cũng lạ, hỡi ôi...?".
"Lúc bấy giờ chí ta quyết phải tìm đến tận châu quan, biết đâu thu lượm được một vài mảnh hỏa tự còn sót lại. Ta xin chuyển sang Hành Nhân Ty, chuyên coi sóc việc dịch các văn thư, liên lạc với các châu biên viễn...".
Tuy vậy cậu vẫn được hưởng những giây phút kỳ thú hiếm hoi nhờ lão Đinh. Chỉ có lão mới thuyết phục nổi ông nội cậu bằng lòng cho cậu đi với lão ra khỏi phủ Tường Vi để dự một vài hội hè nào đó. Cậu bé không bao giờ quên cảnh tượng vật võ trong bùn.
Hai con sông Mộ Giang và Hoài Giang trước khi chảy ra biển đã giao hội ở Ngã Ba Nê- Thôn Nê nằm trên ngã ba ấy. Dân bản địa tìm đủ cách giải thích ý nghĩa của cái tên này tùy theo kinh nghiệm sống và địa vị xã hội của mình. Kẻ thì bảo "Nê" là "Nê sa" (bùn cát). Người khác quả quyết đấy là chữ "Nê" trong câu "Nê ngưu nhập hải" (trâu đất xuống biển lại rã tan, trở lại phận trâu đất như trước). Người yếm thế thì mượn cả nghĩa tiếng Phạn cho rằng "Nê" là "Nê lê" (địa ngục ). Một vài nho sĩ làng nhàng lại tỏ vẻ lạc quan hơn: "Nê trung bảo kiếm" (trong bùn đất chứa kiếm báu)!
Dân xóm bãi (nơi lão Đinh cất tiếng khóc chào đời) sống chuyên đời bằng nghề ăn mày thì bảo "Nê" là "Nê túy" (say nhừ như bùn). Dân xóm này say hát tuồng và say những giấc mộng phù hoa. Mà có lẽ trong số những đứa con của "cái bang", Đinh Đam say nhừ hơn cả.
Xưa kia các vương hầu hùng cứ một phương đã mở trại thủy binh trên Ngã Ba Nê và để lại dấu tích duy nhất là môn vật võ. Võ đài thực chất là một cái chậu đựng bùn khổng lồ đóng bằng những cây gỗ ken xít lại với nhau, bên trong đổ bùn nhão. Chỉ huy trận đấu có hai người. Một vị cao niên khăn đóng, áo dài ngồi trước hiên, nơi đặt bàn thờ tổ đánh mấy hồi trống ngũ liên rồi hát ngân nga:
Ba hồi trống giục ầm ầm
Chấp lệnh tay cầm dùi trống bước ra
Vật vờn vài dải qua loa
Mở đầu hội vật gần xa cùng về...
Còn người thứ hai nhảy vào trong "chậu bùn" với hai võ sĩ. Dân chúng hào hứng vây quanh võ đài, hò reo man rợ thúc giục hai đấu thủ quần nhau tung tóe bùn nước. Đấu thủ khỏe hơn, mạnh hơn lừa thế nhấc bổng được đối phương rồi "cắm" đối phương thun thút xuống đáy bùn. Cậu đứng xem sợ quá, tưởng phen này kẻ yếu thế bị cắm ngược đầu trong bùn sẽ chết ngạt. Bỗng mặt bùn sôi lên sùng sục, người kia vọt lên, mặt mũi toàn bùn như một quái ngư quắp lấy cổ đối phương đang cười ngạo nghễ. Cả hai lại quấn quít nhau như hai đôi rắn sục bùn sủi bọt lên từng đám kêu ùng ục. Người xem càng la thét, dậm chân, lột mũ, quăng nón tới tấp vào võ đài ngầu bùn. Và rồi chính họ nhảy ào vào "chậu gỗ" vật nhau chí tử. Tất cả hả hê, cuồng nhiệt, thơ dại tắm bùn.
Vào mùa xuân hay khi nông phu quanh đó đã cày vỡ đất, cậu bé sung sướng thoát khỏi cái xích chó, tung tăng theo ông nội ra bờ sông hoặc các bờ ruộng tìm hái các thứ rau dại.
Ông nội cậu giải thích. Người Huyền Đô thích ăn rau dại để khám phá cái hương vị hoang sơ chứ không phải tiếc tiền mua chợ. Đó là ý nghĩa tập quán "ăn rau dại" của Huyền Đô. Với ông hoàng già nua này cái gì cũng phải có một ý nghĩa nào đấy. Tại sao người ta không bao giờ cho phép dẫm lên mảnh giấy có chữ hoặc sử dụng chúng vào những việc uế tạp? Vì như vậy, vô hình chúng ta đã xúc phạm đến chữ thánh hiền... Ví như nấu canh rau tập tàng, ngoài mùng tơi và rau ngót phải thêm "bát bát" và "cỏ hôi" mới mang đậm ý vị. Huyền Đô có những thứ rau nơi khác bói không ra, những rau éo, rau trai, rau rìa,v.v. Cứ nhìn tục ham ăn rau dại cũng dư biết Huyền Đô còn lưu lại khá nhiều vết tích của cách ăn người Lạc thời hái lượm. Chẳng thế, không ở đâu dân cư biết dùng nhiều "của rừng" như tại đây!
Phủ Tường Vi mỗi năm có chừng một trăm ngày giỗ chạp lớn nhỏ. Mà ông hoàng Dĩ Cương thì không bao giờ quên bất kỳ một cuộc giỗ cúng nào. Ông lão còn cẩn thận chép "lịch" này vào một tấm liếp tre để không bỏ sót. Có lần phủ Tường Vi bị hỏa hoạn, trong lúc mọi người cuống quýt dập lửa và khiêng những đồ vật quý giá ra khỏi đám cháy, ông lão chỉ ôm khư khư mỗi "tấm lịch" bằng tre ấy chạy tới chỗ an toàn...
Quen sống ru rú với hai ông già ngấp nghé miệng lỗ và một con chó đen cũng giống đực, cậu chỉ cảm thấy sung sướng khi bỗng thấy các bà, các cô, các dì, các chị em của cậu kéo nhau tấp nập vào phủ làm đám giỗ. Cậu lăng xăng, lẩn quẩn trong bếp, sẵn sàng thực hiện mọi mệnh lệnh của họ miễn sao được trông thấy những gương mặt phụ nữ xinh đẹp, quyến rũ và đỏ ửng mồ hôi. Cậu thèm khát ngửi mùi da thịt đàn bà lẫn mùi xào nấu các thức ăn. Họ tươi cười, trêu chọc cậu một cách trìu mến càng làm cậu xao xuyến cảm động. Nhưng hễ thoáng thấy bóng một người đàn ông là cậu sợ hãi lỉnh ngay vào xó bếp. Cậu sợ những người vốn quen nhìn cậu như một thằng bé có hai ngón chân quỷ, sẽ phát giác ra nỗi quyến luyến tội lỗi của cậu đối với đám đàn bà, con gái trong bếp.
Ông nội cậu không hiểu nổi cái nhu cầu thèm được âu yếm, vuốt ve của một đứa trẻ sống thiếu mẹ và những tình cảm nữ tính, lại tưởng cháu quan tâm đến những món ăn. Ông mừng rỡ, hào hứng dạy cháu những kiến thức về nghệ thuật ẩm thực Huyền Đô và ý nghĩa của các cách nấu nướng, chế biến thức ăn...
Người Huyền Đô không đánh giá món ăn theo các mức độ ngon lành mà sự phân định này tùy thuộc vào khí hậu, quan niệm và thổ ngơi của từng địa phương. Họ cũng không quá câu nệ vào mức độ bổ dưỡng của các món ăn hay chuộng vẻ đẹp, sự cầu kỳ hình thức của chúng.
Ông lão bảo cháu, cái chính là "đạo lý của cái ăn": không khí bữa ăn và tinh thần của các món ăn. Điều này thể hiện ở chỗ biết chọn những thực phẩm thích hợp với đất đai, thời khí Huyền Đô, nghĩ ra những cách chế biến thông minh, độc đáo, ý nhị và cao nhã. Mỗi lần ngồi quanh bàn tiệc, một mâm cỗ, con người trở nên gần gũi, khoan hòa và tế nhị với nhau hơn. Xa xưa, đây là nơi biên địa cho những kẻ phát vãng, những người đi mở đất, những toán đãi vàng, những đoàn sơn tràng... tung hoành và kiếm sống. Cho đến lúc hai vương triều thi nhau trị vì và đổ nát, bóng dáng phôi pha và những kỷ niệm vương giả thời hoàng kim còn in đậm lên cách sống, cách phục sức và nhất là cách ăn của Huyền Đô hôm nay với bao thăng trầm, biến cải...
Có lẽ vì thế, trên đất Lạc Quốc chỉ có hai trung tâm tạo được hai trường phái riêng trong nghệ thuật ăn là Thủy Kinh và Huyền Đô. Tại Thủy Kinh, người ta chú trọng nhiều đến các loại "quà" ở hàng phố, còn ở Huyền Đô cái đặc sắc lại nằm trong bữa ăn của các gia đình. Và mỗi đại gia tộc Huyền Đô lại bộc lộ sở trường, sở đoản khác nhau qua phong cách làm cỗ của mình. Họ N... nấu ăn ngon nhưng lại nặng phần trình bày kỳ khu. Phủ L... đứng đầu khoa làm bánh. Họ H...có truyền thống học giỏi nhưng nấu ăn tệ nhất trong các dòng họ lớn.
Ngay đến một chị bán bánh dạo, với một "nách" bánh cũng pha chế bốn, năm thứ nước chấm. Nước mắm mặn đi với bánh bột lọc. Bánh nậm, bánh lá ăn với nước mắm nhạt hơn. Nước mắm ngọt ngọt dành riêng cho bánh bèo, ngược lại, bánh ướt phải dùng nước mắm thật ngọt mới đúng cách...
Riêng trong phủ Tường Vi, cũng có món muối tiêu với ba mươi sáu vị khác nhau dùng cho ba mươi sáu món ăn khác nhau (sáu loại muối nhân với sáu loại tiêu)!
Ông lão say sưa kể thả giàn từ món cơm lá sen công phu đến cháo ngũ cốc nấu bằng nước luộc gà với năm thứ cháo nếp, cháo bo-bo, cháo đậu đen, cháo đậu xanh và cháo đậu đỏ trong một cái liễn. Chi Nguyên ngồi ngẩn ra nghe, nuốt nước bọt không phải vì thèm các món ăn mà ông nội cậu vừa kể, cậu chỉ thèm một món duy nhất: nước đái của dì Tịnh Khuê!
Dì Tịnh Khuê mười chín tuổi, khỏe mạnh và đẹp nhất trong số những người phụ nữ bà con của cậu. Hoàng thân Dĩ Cương chọn dì làm nguồn cung cấp "thần dược" cho những người trong phủ Tường Vi chữa bệnh theo lối cổ truyền: uống hoặc xoa bóp bằng nước tiểu.
Một lần, cậu bé bị cảm sốt gì đó, ông nội cậu cho cháu uống "thuốc" của dì Tịnh Khuê. Cậu sốt nặng thêm. Không ai hiểu lý do ngoài cậu. Cậu bị choáng khi lờ mờ cảm nhận được mối liên hệ bí ẩn với một người khác giới qua những giọt nước tiểu cậu vừa uống vào miệng. Cậu, một đứa bé cô độc, khao khát tình yêu, sự dịu dàng nhưng lại nuôi đầy mặc cảm với hai ngón chân quỷ, quá nhạy cảm trước mọi biểu hiện giới tính, bỗng tìm thấy khoái cảm lạ lùng khi tiếp nhận nước tiểu của một người phụ nữ hơn mình vài tuổi lại xinh đẹp và dịu dàng, vừa mường tượng ra những cuộc chung đụng bàng bạc màu sắc dục tình dù ngây thơ và hơi nhuốm vẻ bệnh lý. Dù sao đó cũng là kinh nghiệm Tình Yêu sơ khởi của cậu.
Lão Đinh là người đầu tiên phát lộ ra cái bí mật của căn nguyên khiến cậu bé bị sốc như vậy khi lão báo cho cậu hay: Dì Tịnh Khuê sắp lên xe hoa với ông Vĩnh, một nhà phân tâm học! Cậu phát cuồng lên, nói năng lảm nhảm, chân tay run rẩy, mặt mũi xanh xám. Hoàng thân Dĩ Cương cuống cuồng sợ cháu lên cơn động kinh, vội sai lão Đinh rước thầy thuốc. Lão chỉ cười hinh hích. Lão biết thừa, cậu bé đang "ghen"? Thay vì đi rước thầy thuốc, lão đến thẳng nhà dì Tình Khuê. Không hiểu lão thuyết phục người phụ nữ ấy thế nào, chỉ biết lão lặng lẽ quay về phủ Tường Vi, lấy bình nước tiểu cho cậu bé uống!
Cậu uống xong lại mê man thiếp đi. Đó là thang thuốc tinh khiết cuối cùng của dì Tịnh Khuê ban tặng cho cậu. Từ ngày mai, lên xe hoa, tất cả ở dì sẽ trở nên ô trọc ?
Với chấn thương ấy, cậu bé vĩnh biệt tuổi mười ba!
(Tiếp theo)
(Tiếp theo và hết)
Quán Tưởng đột ngột rời bỏ thủ đô hoa lệ của Tây Dương, trở về Huyền Đô trên một chiếc tầu thủy với vô số sách vở và một người vợ mảnh mai, duyên dáng. Chi Nguyên háo hức cùng lão Đinh ra bến đón khách. Với cậu, bất cứ sự đổi thay nào theo bất cứ chiều hướng nào mang đến cho phủ Tường Vi cũng tốt hơn bầu không khí lầy đọng, u ám và vô sinh khí của chốn ấy. Mà chắc chắn, sự hiện diện của nhà thiên văn Quán Tưởng trong phủ không thể coi là một sự kiện nhỏ nhặt được. Chưa bao giờ được gặp ông bác danh tiếng của mình, nhưng Chi Nguyên đã được nghe rất nhiều về ông, kể cả việc được xem những tờ tạp chí ngoại quốc đăng bài kèm theo ảnh của Quán Tưởng!
Nhưng ngay khi con tầu chở bác cậu cập bến, cậu đã thấy một gã đàn ông nhỏ thó, đeo kính đen, cổ áo kéo lên che kín cái cổ khẳng khiu của gã, lảng vảng đến gần hai người. Lão Đinh thì thầm bảo cậu:
- Coi chừng thằng mực kia!
Cậu ngơ ngác, lo lắng hỏi:
- ai hở ông?
- Thì cái thằng đeo kính đen kia kìa. Nó là người của Sở Mật Vụ Huyền Đô đấy!
Cậu chẳng biết cái Sở Mật Vụ ấy ghê gớm đến mức nào, nhưng cứ thấy thái độ đề phòng của lão Đinh, cậu cũng hiểu: "thằng mực" kia không ra bến tầu để ngắm cảnh!
Hoàng thân Dĩ Cương nhường phủ thờ cho con trai cả làm thư viện và nơi viết lách. Quán Tưởng lập tức cho phun thuốc chống mối mọt, thuê thợ mộc đóng những giá gỗ theo đúng kích thước và hình mẫu ông mang theo từ Tây Dương về. Và xếp lên đấy đều tăm lắp những cuốn sách bìa cứng, dày cộp, gáy mạ vàng.
Còn Chi Nguyên chỉ xăng xái giúp bà bác dâu thu xếp căn phòng dành riêng cho vợ chồng bà. Có lẽ chỉ riêng sự có mặt của bác cậu thôi chẳng làm xáo trộn nhiều lắm cái nhịp sống ủ dột, uể oải của phủ Tường Vi. Chính người đàn bà xuất hiện không hẹn trước này mới thực sự khiến mọi người quanh mình phải thay đổi!
Trước hết bà thuyết phục bố chồng cho Chi Nguyên đến trường, điều mà cậu không bao giờ dám mơ tới. Không hiểu bà nói những gì, chỉ thấy hoàng thân Dĩ Cương gọi cháu vào, bảo:
- Ta già rồi không thể dạy con mãi được. Con đến trường nhớ học hành chăm chỉ, đừng đua đòi chúng bạn làm các điều bậy bạ hoặc đánh lộn... - Ngập ngừng một lúc, ông nghẹn giọng khuyên cháu - Chẳng may có đứa nào chế giễu hai "cái ngón chân" của con, con đừng để tâm hay tốt nhất là luôn đi giầy và đừng bao giờ tắm sông với chúng!
Lúc đầu, cậu hăm hở tưởng có thể tha thẩn suốt ngày ở trường hoặc tham gia các trò chơi với lũ bạn học để bù lại những ngày bị xích trong phủ cạnh con chó mực. Nhưng chính cậu lấy làm lạ, thay vì tìm niềm vui học đường, cậu chỉ muốn mau mau chóng chóng tan giờ học để quay về phụ giúp bác dâu chăm sóc khu vườn...
Lén lút ngắm bà, thấy gương mặt bà đẹp lạ lùng với một vẻ ngây thơ khiến cho đôi khi cậu có cảm giác cậu phải có trách nhiệm bảo vệ bà. Sức lực của hai bác cháu cậu dĩ nhiên không đủ để cải tạo toàn bộ diện mạo của khu vườn hoang phế, nhưng ít nhất họ cũng xới đất thành vài luống nhỏ, trồng một vài giống hoa bình thường không đòi hỏi kỹ thuật trồng tỉa, chăm sóc phức tạp lắm. Khi bông hoa đầu tiên nhú ra, bà vô cùng thích thú khoe với cậu ngay lúc cậu vừa tan học về:
- Cây hồng của tụi mình nở hoa rồi Nguyên ơi!
Cậu cảm động và sung sướng. Bà xưng hô với cậu như với một người bạn. Bà đối xử với lão Đinh và bố chồng cũng với sự thân thiết giản dị nhưng vẫn giữ nguyên sự cung kính đúng lễ giáo. Dường như tâm hồn bà đầy ắp tình cảm tự nhiên, nhân hậu nên chẳng bao giờ bà phải cố gắng, khéo léo làm đẹp lòng kẻ khác. Sống bên cạnh bà, người ta bỗng thấy dễ chịu, gần gũi và sẵn sàng cởi mở với bà cả những chuyện mà chưa chắc họ đã dám thổ lộ với người thân của họ. Bởi vậy không có gì khó hiểu khi cậu đem mọi chuyện vui buồn của cậu ở trường kể với bà bác dâu.
Cậu rất ngán một thằng bé ngổ ngáo trong lớp cậu. Nó vừa to con vừa liều lĩnh. Một lần, nó rủ vài tên bạn nữa, đè ngửa cậu ra giữa lớp, lột phăng giầy ra khỏi chân để lộ ra hai ngón chân quỷ. Cả lớp được trận cười thỏa thuê, trước nỗi căm hận, nhục nhã của cậu. Sáng hôm sau, cậu thấy nó đang ngồi chồm hỗm bên một gánh hàng rong, ăn quà. Cậu lặng lẽ đi tới, vớ lấy cái vá sắt múc đầy mỡ nóng từ cái chảo đang rán bánh chuối, một tay kéo cổ áo kẻ thù, tay kia đổ tuột vá mỡ xuống lưng nó. Thằng bé rống lên, vùng chạy. Nó phải nghỉ học một tuần vì bỏng lưng, nhưng tuyệt nhiên không dám hé răng cự nự với cậu. Cả lớp từ đấy cũng phải nhìn cậu với con mắt kiêng sợ. Bà nghe xong, buồn rầu nói:
- Bác nghĩ con chỉ nên đi giầy vào những ngày ẩm lạnh, còn những ngày thường đi xăng-đan để các bạn xung quanh nhìn mãi hai ngón chân của con, quen dần sẽ thấy bình thường. Người ta cần phải biết bảo vệ danh dự của mình nếu cần, có thể chết. Nhưng cũng có khi phải biết tha thứ.
Đây là lần đầu tiên bác dâu cậu dùng giọng khuyên bảo đối với cậu. Cậu biết bà trách móc cậu quá hung bạo. Cậu vô cùng hối hận đã làm bà phiền lòng...
Càng quý mến bà bao nhiêu, cậu càng ngạc nhiên trước sự dửng dưng đối với vợ của bác cậu bấy nhiêu. Chẳng bao giờ cậu thấy bà than phiền về điều này. Ai có thể tưởng tượng nổi, vợ chồng ông chưa một lần cùng nhau dạo phố, đi ăn tiệm hoặc lên ngắm cảnh những lăng tẩm nổi tiếng nhất của Huyền Đô?
Cũng nhờ bác dâu cậu, ông nội cậu đỡ tủi buồn, bất mãn khi bác cậu dẹp cả núi sách cổ văn của cha cho vào một xó. Còn lão Đinh thì hớn hở gọi cậu ra một góc, thì thầm đầy vẻ bí mật:
- Cậu biết chuyện gì sắp xảy ra chưa?
Cậu ngạc nhiên nhìn lão bày tỏ, cậu tin rằng cái sắp xảy ra ấy không thể nào là chuyện rủi ro được. Lão sung sướng:
- Bà bác dâu của cậu ăn đất sét một cách ngon lành!
Cậu càng ngơ ngác chẳng biết là lão đùa hay thật nữa. Lão cười vào mũi cậu:
- Đồ con nít, bà ấy thích ăn đất sét thì... - Lão thì thầm.
Cậu chợt hiểu, bác dâu cậu đang có bầu. Nhưng cậu chưa đủ kinh nghiệm từng trải để cắt nghĩa niềm hân hoan của lão Đinh trước việc này. Lão không ưa gì bác cậu nhưng đối với người vợ của ông ta, lão coi như con gái của mình. Và khi biết bà sắp có con, lão mừng khác thường. Cái phủ này đã quá lâu không có tiếng trẻ oa oa, lão khao khát được nghe cái âm thanh của sự sống ấy ngay bây giờ. Cậu để ý thấy bác dâu cậu đi lại nặng nề chứ không uyển chuyển như trước và thỉnh thoảng đang làm gì đó bà lại ôm bụng, mặt hơi nhăn lại rồi bỏ về phòng riêng.
Có lẽ người duy nhất trong phủ vẫn không thay đổi lịch sinh hoạt từ khi bác dâu cậu bụng chửa vượt mặt, lại chính là ông bác cậu.
Ông vẫn thường ngồi lì trong phòng làm việc, đọc sách, viết lách gì đó, chỉ miễn cưỡng nhìn lên khi cậu rón rén bước vào, khép nép mời ông xuống dùng bữa. Cậu phát ngốt nhìn những giá sách đầy tràn sách vở viết bằng thứ tiếng Tây Dương và những thứ tiếng lạ hoắc với những cái gáy mạ vàng óng ánh, khô cứng như những khối sắt.
Rồi bác dâu cậu sinh một đứa con gái. Bác trai cậu bỗng thay đổi một cách khác thường khi bắt đầu được làm bố. Ông chăm sóc vợ con chu đáo, tỉ mỉ và trở nên cởi mở với mọi người hơn. Nhưng những việc này cũng chiếm của ông khá nhiều thời gian, gần như ông phải thức trắng đêm để tiếp tục theo đuổi công trình của mình. Vì ông bất tuân thượng lệnh, cơ quan bảo trợ cắt luôn khoản tiền mà trước đây hàng quý người ta gửi từ Tây Dương sang cho ông. Hoàn cảnh vật chất khá gieo neo, mật vụ Huyền Đô lại không ngớt theo dõi "tên gián điệp của Hồng Mao". Quán Tưởng đã dũng cảm vượt qua với thái độ vui vẻ, lạc quan. Tuy nhiên không phải vì khó khăn mà ông quên những thói quen dấu ấn "văn minh Phương Tây" in đậm trong óc ông, mỗi lần pha sữa cho đứa con gái ba tháng (vợ ông không có sữa cho con bú và một chứng bệnh lạ lùng lúc đầu khiến bà nhức mỏi toàn thân, rồi sau đó, diễn biến mỗi lúc một xấu hơn, tay và nửa người bên trái tê nhức), ông phải tự tay kiểm tra nhiệt độ chai sữa bằng nhiệt kế...
Cậu đã lớn, không thể quấn quít suốt ngày bên giường bệnh của bác dâu. Nhưng trong lòng cậu, một tình thương sâu sắc khiến cậu cảm thấy gắn bó hơn với bà. Đôi lúc, nghe thấy bà rên khe khẽ vì đau đớn, cậu lại ứa nước mắt vì thương và lo. Hễ bà bớt đau, có thể ngồi dậy, đi lại trong phòng, bà lại giục chồng quay trở lại Tây Dương tiếp tục công trình nghiên cứu Vũ Trụ của ông. Nhưng ông dịu dàng một cách kiên quyết bảo vợ:
- Anh không thể bay theo một quỹ đạo mà không có em và con !
Dường như tình yêu trong ông bừng tỉnh, trỗi dậy với tất cả sức mạnh tàng chứa trong lòng nó lâu nay bị sách vở và kiến thức "công truyền" đè ép.
Cậu được sống những ngày phấn hứng ngắn ngủi trước khi tai họa đổ xuống phủ Tường Vi. Và bỗng nhiên, bác cậu chú ý đến những kiến thức mật truyền và thường tranh thủ thời gian lên chùa Viên Giác trên đồi Bạch Phụng đàm đạo với Phi Nhị và đại sư huynh của nhà sư. Đôi khi cậu được đi theo. Cậu cũng được bác cậu cho hay, ông đang hoàn tất cuốn "Ngày không bình thường của "Thái Dương Hệ". Trong đó, Vũ Trụ hiện ra như mái nhà gần gũi với con người. Ông muốn xác định lại chỗ đứng của con người dưới ánh sáng mặt trời, trong mối quan hệ vĩ mô với Thái Dương Hệ, cảnh giác trước nguy cơ chuyên môn hóa và vi mô hóa trách nhiệm con người, tài năng sáng tạo và tận dụng những sở đắc của những kiến thức phong phú thuộc các lĩnh vực khác...
Phi Nhị thú nhận với bác cậu rằng, nhà sư luôn bị tâm thế cô đơn đầu độc, ông chỉ còn cách chia sẻ nỗi xao xuyến cùng sự bất an với con Nhồng biết nói tiếng người ở mái hiên nhà khách trong khuôn viên của chùa. Nguyên có một tín đồ bắt được nó ở trên đỉnh Cô Phong mang đến tặng chùa.
Sáng nào nhà sư cũng dậy sớm, mùa nóng cũng như mùa lạnh, tập thể dục rồi chạy lên ngọn đồi Bạch Phụng sau chùa, ngồi điền tức giữa khoảng trời nửa giờ mới quay xuống. Con Nhồng bao giờ cũng đón nhà sư bằng cái điệp khúc véo von của nó:
- Tát tơ-vam a-si... Tát tơ-vam... a-si!
Lần nào nghe con Nhồng rao giảng cái chân lý trong "áo nghĩa thư", nhà sư cũng có cảm giác đang tiếp nhận bản thông điệp từ hơn bốn ngàn năm trước vọng về, ngơ ngác tự hỏi:
- Đấy là bài hát của loài chim hay là những lời dạy trong rừng của Sấm Thư?
Con vật tiếp tục bài ca hồn nhiên của nó:
- Tát tơ-vam a-si...
A, mày cóc biết gì hết, mày cũng chẳng có cái sứ mạng rao giảng chân lý nào cả, mày cứ việc hát lên những gì mày thích. Tao ghen với mày.
Nhồng ơi, mày reo vui với thế giới này bất chấp cái thế giới ấy được dẫn dắt bởi chân lý này hay chân lý khác.
Qua mỗi ngày nhà sư trẻ kiên nhẫn dạy con Nhồng thuộc lòng từng câu trong đoạn đối thoại hay nhất của "Những lời dạy trong rừng".
- Hãy kiếm cho ta một trái vả.
- Thưa nó đây !
- Bửa nó ra!
- Thưa, bửa rồi.
- Thấy gì?
- Thưa, vô số hạt nhỏ.
- Hãy tách một hạt ra ?
- Thưa, tách rồi.
- Thấy gì nữa?
- Thưa, chẳng thấy gì hết cả!
- A, cái mà không ai nhìn thấy gì hết chính là cái đã khiến cây vả này lớn lên và tồn tại. Hãy tin rằng, cái thực thể tế vi ấy đã tràn ngập Vũ Trụ. Đấy là chân lý. TAT-TƠ-VAM A-SI, cái ấy là người, cái ấy là Tự Ngã.
Cái giọng nheo nhéo của con chim làm các sư huynh của nhà sư khó chịu mặc dù nó chỉ rao giảng những chân lý "bất khả tư nghị". Họ coi đó là sự giễu cợt tính cách thiêng liêng của giáo lý và làm rộn sự trang nghiêm của Phật đường. Thêm một lý do để họ hạch hỏi nhà sư trong những kỳ an cư kiết hạ.
Vũ Trụ vẫn vận hành. Những đám bụi tinh vân vẫn lấp lánh trong siêu thiên hà, cái đại công thức TAT-TƠ-VAM A-SI vẫn không ngớt chi phối thế giới nhân sinh này, nhưng người vợ tuyệt vời của ông thì đã rơi vào tình thế tuyệt vọng do chứng co rút toàn thân. Căn bệnh quái dị đã buộc bà mỗi ngày một cong lưng xuống cho đến lúc "gãy" gập đôi người, cứng đơ như một cái thước thợ. Khổ đau và yêu vợ hơn bao giờ hết, ông tự tay đóng cho bà một chiếc ghế bành đặc biệt, chung quanh ghế phối trí những thứ bà cần dùng và mỗi buổi sáng, đích thân ông đẩy chiếc ghế đưa bà ra hàng hiên hưởng khí trời trong lành và ông vừa để mắt chăm sóc vợ vừa viết lách. Ông mỉm cười, dịu dàng bảo vợ:
- Em là một định tinh nên hành tinh anh phải tăng tốc!
Còn đứa con gái ông giao phó cho một người đàn bà giúp việc. Ông kiên nhẫn di chuyển cả "hệ thống định tinh" phơi nắng và hong dưới ánh sáng mặt trời. Từ ngày bị bệnh co rút, bà không chịu để cho bất cứ ai săn sóc mình ngoài chồng. Có những lúc, ông mải làm việc quên bẵng mất bóng nắng đã lên cao, chiếu thẳng vào mặt vợ. Cậu đi học về thấy mặt bà đầm đìa mồ hôi, hai tay đưa lên che nắng gay gắt. Cậu hớt hải định đẩy ghế cho bà tránh nắng. Bà bực dọc rít khe khẽ:
- Đi đi. Đừng làm rộn anh ấy ?
Vẻ dịu dàng, tính tình điềm đạm biến mất, thay vào đó là một sự cáu bẳn và xa lánh tất cả mọi người, bà như thù ghét cả cậu- đứa cháu trai trước kia bà thường dành cho những sự trìu mến, thông cảm như đối với một đứa con.
Cậu không biết có phải vì thế bác cậu đã viết cuốn về những mảnh vỡ của mặt trời và những đường bay vô định đến hủy diệt không?
Ông nội cậu và lão Đinh cũng buồn rầu, ngơ ngác không kém gì cậu. Căn bệnh của vợ nhà bác học được những người trong phủ Tường Vi đón nhận với nỗi lo sợ hơn cả một tai họa có thể mang đến chết chóc. Nó báo hiệu một cái gì đấy, bí ẩn hơn, có tính chất định mệnh không thể cưỡng lại được, cho một dòng họ đang sụp đổ...
Từ trước đến giờ, cậu chưa bao giờ ngớt đinh ninh mình là một đứa trẻ mồ côi. Nhưng đến tận lúc này cậu mới thực sự sống trong bầu không khí côi cút, buồn thảm của một đứa trẻ đang mất mẹ. Mỗi lần cậu mon men đến gần nếu bà đang thiu thiu ngủ thì thôi, còn nếu bà chập chờn nửa tỉnh nửa mê trên chiếc ghế bành thì thế nào bà cũng giật mạnh chuông báo động gắn bên cạnh chiếc ghế, miệng bà la hét:
- Cứu tôi với... Thằng chân quỷ đến giết tôi... Trời ơi, đuổi nó đi giùm tôi!
Cậu khóc nghẹn bỏ đi. Cậu không giận bà gọi cậu là "thằng chân quỷ", cậu chỉ thấy những biểu hiện khác thường ấy cho thấy tình trạng của bà mỗi lúc một thêm tuyệt vọng. Hai bác cháu cậu trong hoạn nạn bỗng gần gũi nhau hơn. Cậu trở thành một "cộng tác viên khoa học" của ông như ông vẫn trịnh trọng giới thiệu với Phi Nhị. Cậu vô cùng sung sướng khi được dùng cái vốn cổ văn ít ỏi của cậu học từ ông nội cậu, giúp nhà bác học phân loại, sắp xếp thư mục cho "kho tàng Đông Phương" của hoàng thân Dĩ Cương. Cậu cảm thấy trong ông bắt đầu lay chuyển những ý niệm về sự linh diệu hiện hữu mới chính là bản thể của Thế Giới sự vật và chung sinh. Về tâm lý học, ông nhận thấy trong "linh hồn" có một cái gì đấy đồng nhất hay tương tự với cái thực tại tâm linh. Về đạo đức học, cứu cánh tột cùng của con người ở sự hiểu biết bản thể tiềm tàng và siêu việt của toàn thể hiện hữu...
Lần đầu tiên cậu thấy bác cậu khóc với cậu. ấy là ngày bác dâu của cậu chết. Ông nội cậu không muốn để thi thể con dâu trong tư thế co quắp như vậy. Nhưng bác cậu vừa khóc vừa nói với người vợ xấu số của mình:
- Khi sống, em thấy tư thế nào dễ chịu nhất đối với em thì em bảo anh đặt em như vậy. Bây giờ em chết, em muốn nằm xuống với tư thế nào thì cũng hãy bảo cho anh. Anh sẽ chiều em?
Và xác bà vẫn co quắp. Ông đã nhờ lão Đinh mua những tấm ván gỗ và tự tay ông đóng cho vợ một chiếc quan tài vuông.
Một cỗ quan tài vuông!
Một kẻ lạ mặt vốn hàng ngày lảng vảng quanh phủ Tường Vi, đột nhiên lẻn vào trong phủ thờ, bảo nhỏ Chi Nguyên :
- Thế là đủ rồi, bảo bác cậu càng chuồn nhanh khỏi Huyền Đô càng tốt.
Cậu không hiểu những lời ấy có ý nghĩa thế nào, kẻ lạ mặt đã biến mất khỏi phủ thờ, cậu chệnh choạng quay về phòng bà chị họ còn nằm trong nôi mút tay. Mải lo đám tang, mọi người đã bỏ đói nó. Vừa cho cô chị họ bú sữa trong bình, cậu vừa mang máng. Chính hắn là "Thằng Mực", mật vụ Huyền Đô? Và cậu cảm thấy kẻ lạ mặt đang lẩn quất đâu đó, rình mò bác cậu và mọi người. Và cơn ác mộng chưa dứt, cậu đã thiếp đi ngay bên vành nôi...
Cậu sẽ không bao giờ quên gương mặt hốc hác, bơ phờ của bác cậu trong đám tang vợ ông. Ông đã òa lên khóc khi lão Đinh và những người đào huyệt đưa chiếc quan tài vuông xuống cái hố sâu thăm thẳm.
Và một tháng sau, cậu và lão Đinh lại phải tiễn bác cậu và cô con gái mới hơn mười tháng tuổi xuống tàu thủy. Hầu như ông ra đi với hai bàn tay không, bao nhiêu sách vở ông giao lại cho cậu và Phi Nhị gìn giữ. Thế là cha con ông quay sang Tây Dương, lại một kiếp lưu đày!
Còn lại cái phủ đã hoang vắng lại càng thêm hoang vắng sau cái chết của bác dâu cậu.
Rồi cơn binh lửa ập đến, xô đẩy Chi Nguyên ra khỏi phủ Tường Vi. Sau đại biến cố Z..., chàng mới quay về cố hương sau bao ly tán, nhớ nhung nuối tiếc và ngấm ngầm hy vọng...
Quay về phủ Tường Vi, chàng hết sức đau khổ pha lẫn chút ngậm ngùi, ông nội chàng đã khuất núi. Ông nội chàng có ba người con trai và một đứa cháu đích tôn mà khi chết không một kẻ chống gậy sau quan tài!
Và chàng cũng phải đọc bản cáo phó trên một tờ tạp chí Tây Phương về cái chết của bác chàng- nhà bác học Quán Tưởng.
Hóa ra chuyến hồi hương cuối cùng từ Tây Dương trở về Huyền Đô qua ngả B... kinh đô của một vương quốc Đông - Nam á, ông đã dừng lại đó một tháng để hoàn tất công trình của mình nghiên cứu "Cẩm nang Đông - Nam á". Tạp chí "Tư Tưởng" đã in công trình ấy sau khi ông chết, không quên mấy dòng chữ nghiêng báo tin tác giả đã quá cố.
Chàng xót xa đọc những dòng chữ in nghiêng đó trong bản cáo phó. Vỏn vẹn có vài chữ. Còn ông mất trong trường hợp nào, tạp chí không nói rõ. Hoặc giả họ biết đấy nhưng thấy không cần thiết phải kể lể dài dòng trong cái thời đại ứ thừa thông tin này. Cũng có thể các biên tập viên của tờ tạp chí siêu quốc gia đó không mảy may bận tâm đến việc cái chết đã đến như thế nào với một thần dân Lạc Quốc, dù người ấy có là bác học đi chăng nữa.
Nhưng rốt cuộc, khi cùng Thu Niệm, người con gái duy nhất của nhà khoa học quá cố, một nữ bác sĩ vừa tốt nghiệp y khoa bên Tây Dương xin hồi hương để chịu tang bố, lên thăm mộ bác chàng.
Chàng ngồi trong căn phòng tan hoang sau bao lần ly loạn. Chỉ còn vật vờ dăm cuốn sách cổ văn nhằng nhịt chữ nghĩa rồng rắn trên những trang giấy ố vàng, mủn tơi. Thực ra căn phòng cũng không thảm hại hơn những phần còn lại của cái phủ đệ tồi tàn này.
Cách đây một trăm sáu mươi sáu năm, phủ Tường Vi được xây dựng cho một vị hoàng tử. Bây giờ một mình giữa hoang phế, chàng chua xót đón nhận cảm thức thời gian trong tiếng mọt ăn rào rào cùng một lúc trên hàng trăm cây cột chống đỡ cho quá khứ nặng nề, ủ dột phía trên mái ngói âm dương cũng hư nát tứ tung. Chàng bỗng nhớ không phải bài thơ của cụ tổ năm đời của chàng, mà hai câu thơ của một thi sĩ đương thời- người được coi là thi sĩ điên khùng.
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng còn thấy nguyên mầu ấy không?
Tâm thể chàng chìm đắm trong làn sương mù vàng vởn lên với cảm giác của bầy người nguyên thủy ngồi trong hang, lưng quay ra ngoài cửa. ánh lửa hắt bóng thế giới bên ngoài lên vách hang cho họ quan sát những ý niệm lung linh, khó tin. Chàng thực sự hoảng hốt. Chàng đang chiêm bái một ý niệm gần gũi với cái chết hơn là những hồi ức.
Chàng thẫn thờ bỏ ra vườn, bâng khuâng nhớ lại thói quen ăn rau dại của ông nội chàng.
Giờ này ông nội chàng đã thành người thiên cổ. Còn các giống rau dại mỗi ngày phải "khôn" lên nếu không muốn tuyệt chủng trước sự tấn công của thời đại hóa học, từ thuốc trừ sâu đến hóa chất phát quang. Chúng phải cằn đi, thu hẹp bản lá lại, phải trổ gai trổ bướu và cô đặc những chất đắng chát trong nhựa cây...
Chàng rùng mình ớn lạnh. Tưởng chừng mưa gió ngoài kia đang sầm sập, cây cối vặn mình răng rắc. Ông nội chàng vẫn xếp chân bằng tròn trên ván gỗ lim, với cái ấm kim kích hỏa và chiếc bếp lò nung. Giọng ông nội chàng giống như thứ phù trầm lắng dẫn xuống trí nhớ của chàng.
"Một hôm vừa về mùa thu..."
Sấm chớp và ánh lửa bập bùng tắt ngấm, tất cả lạnh lẽo như lời ai điếu "thệ bất hoàn". Tiếng người chị họ của chàng cáu kỉnh nói với lão Đinh làm chàng bàng hoàng ra khỏi mộng.
"Xin ông đừng xía vào chuyện gia đình tôi. Cha tôi là con trưởng, chú Bất Thức ở xa, chú Quán Sinh chưa biết sống hay chết ra làm sao, tôi với Chi Nguyên có quyền bàn bạc, quyết định bán khu vườn này với cái nhà đổ nát này. Chú ấy vừa ra tù chắc cần tiền bồi dưỡng, sắm sửa quần áo và lo cưới vợ, bây giờ chẳng còn ai thờ phụng hương hỏa vẽ vời nữa, cứ bán phắt đi chia nhau sòng phẳng là cách "thừa kế tốt nhất!"
Chàng cắn chặt môi để khỏi bật khóc òa lên. Chị họ chàng không có lỗi gì cả, cái gì chẳng bán chác được, quy thành tiền được kể cả những thứ thiêng liêng nhất, quý báu gấp trăm ngàn lần mảnh vườn này?
Nhưng thế hệ chúng ta còn gì để thừa kế chia nhau sòng phẳng hả chị Niệm?
Cơn lốc bất thần nổi lên...
Hình bóng ông nội chàng chao qua đảo lại giống như quả lắc đồng hồ, dần dà chậm lại, dừng ở điểm chết. Cả hai ông cháu, một đã thác, một đang sống mà cố quên hiện tại, cùng du hồn về chốn xưa như tìm kiếm một giấc mộng ban đầu đã quá xa xăm, trôi dạt lênh đênh. Bất kể vòm trời vần vũ, sấm chớp ngoài khung cửa cũng không làm chàng mảy may tỉnh ngộ. Không những thế, chàng càng chìm sâu trong đáy hư ảo.
Chợt chàng nghe tiếng lão Đinh nói với Thu Niệm, giọng đắc thắng:
- Cô ơi, có thư ông Quán Thức gửi về đây này.
Chàng dửng dưng tiếp nhận mẩu tin này. Chàng chỉ nghe nói đến ông chú út của mình một, hai lần gì đó. Vả lại, chừng ấy năm binh lửa đã tắt, sao ông ấy không một lần quay về thăm cha già của mình, để đến nỗi, ông nội chàng có ba người con trai mà lúc chết không có một ai chống gậy sau quan tài mình? ờ, như vậy có gì khiến lão Đinh cao hứng đến thế kia?
Mãi sau nghe Thu Niệm đáp, chàng mới hiểu:
- Kể cả chú Thức có về thì cũng vẫn phải bán cái phủ này thôi, dĩ nhiên, thay vì chia hai, bây giờ chia ba?
6.
Một buổi sáng ông lão Đinh Đam không dậy nổi nữa. Chàng lo lắng nhìn gương mặt tiều tụy, vàng ệch của ông lão. Lão lắc đầu:
- Thôi khỏi, bệnh tật gì đâu mà khám. Đêm qua tôi nằm mơ thấy thằng bé chết vì tôi cho ăn bã mắm về đây. Nhưng nó lạ lắm kia, tay chân đeo vòng lục lạc, béo mũm mĩm, đen bóng như một con quỷ nhỏ. Nó nấp đằng sau cánh cửa, tôi đuổi nó ra thì nó lại trốn dưới gầm giường rồi biến mất....
Lão thều thào kể. Năm ấy Huyền Đô đói to. Người chết đói nhan nhản ngoài đường. Có một thằng bé đói lả, cố lết đến trước cổng phủ Tường Vi xin bố thí. Lão và hoàng thân Dĩ Cương cũng đã mấy ngày húp cháo cầm hơi, lấy đâu ra cơm gạo cho nó. Lão đành xúc xác mắm trong chum cho nó. Thằng bé ngấu nghiến nhai hết tô bã mắm. Ăn xong, nó khát quá, mò xuống Mộ Giang uống nước sông. Nó uống cho đến lúc cành bụng, ngã vật xuống. Đến sáng, lão ra bờ sông thấy thằng bé nằm chết còng queo, sợ quá, cố lấy hết sức tàn bồng xác nó thả xuống Mộ Giang để dòng nước cuốn nó đi, phi tang...
Chàng gượng cười cố an ủi ông lão: Trời ơi, ông nằm mơ thấy "Sắc bùa" đấy thôi?
Ông lão nhìn lên trần nhà lẩm bẩm:
- ừ nhỉ, cậu nhắc tôi mới nhớ ra nó là con quỷ trong tục hát "Sắc bùa"... Nó đến hỏi tội của tôi đấy mà... Nó sẽ lôi tôi ra trước những người đến tróc quỷ... Khiếp thật, không giấu được với nó đâu. Nó biết hết mọi tội lỗi của tôi...
Chàng hoảng hốt nhìn ông lão mặt nhăn nhúm, đôi mắt toàn lòng trắng, những sợi tóc bạc xác xơ như dựng cả dậy trên đầu và chòm râu trắng như cước lại mềm oặt, bết xuống cái cằm nhọn hoắt như một khúc xương cùi chõ. Đâu rồi "sư phụ Đinh Đam" hào hùng của chàng xưa?
Độ ấy thường có những người bán chiếu rong từ miền trong đi ra Huyền Đô, vai gánh hai bó chiếu nặng trịch, đầu quấn chiếc khăn rằn. Người đàn ông mặt vuông chữ điền, da xạm nắng, mắt sáng quắc, ung dung lượn trước cổng phủ Tường Vi rao:
- Ai mua chiếu không? Ai mua chiếu không?
Con chó đen hung hăng lao ra, gầm gừ nhe răng. Gã bán chiếu tỏ vẻ sợ hãi lui lại, tay cầm chiếc khăn rằn vừa rút khỏi đầu. Con chó đen xông tới, ngoác mõm định xơi tái vị khách lạ. Gã vờn nhẹ chiếc khăn, con chó đớp lấy đầu khăn. Chỉ chờ có vậy, gã giật mạnh, cả hàm răng con chó dắt vào khăn. Vẫn để nguyên gánh chiếu trên vai, gã vừa rao: Ai mua chiếu không; vừa rút chiếc khăn lên cao, con chó bị treo toòng teng tha hồ dãy dụa. Sư phụ họ Đinh chạy ra. Vốn cũng là nhà võ khi theo học các thầy tuồng, lão Đinh biết ngay gã kia là cao thủ còn cậu bé Chi Nguyên kinh dị và buồn cười nhìn con chó đen bị nhấc bổng lên rũ rượi như một nắm giẻ rách. Sư phụ họ Đinh gật gù:
- Khá lắm, không ngờ được gặp cao nhân phương xa!
Gã hiểu ý thầm thách đấu trong câu nói tưởng như khen của lão Đinh, đáp lại cũng đúng kiểu giang hồ:
- Cung kính không gì bằng tuân mệnh ?
Lão Đinh quay lại bảo cậu:
- Phiền cậu vào phủ lấy cho tôi một hạt muối !
Cậu ngơ ngác không hiểu sư phụ lấy hạt muối làm gì. Chỉ thấy mặt gã đàn ông tự dưng đẫm mồ hôi. Tuy vậy, cậu cũng ba chân bốn cẳng chạy vào bếp vốc cả nắm hạt muối mang ra. Gã bán chiếu đã đặt gánh xuống đất, đứng đối diện với lão Đinh, nét mặt căng thẳng trầm trọng. Cậu đưa nắm muối cho lão Đinh. Lão chỉ nhón lấy một hạt còn nguyên cạnh sắc, mỉm cười nói với đối thủ:
- Con vật vô tri vô giác không may xúc phạm đến tôn giá, lão là chủ nó, lão phải chuộc lỗi!
Cậu nhịn cười không nổi. Lão Đinh dùng toàn giọng điệu tuồng pho trịnh trọng. Gã bán chiếu chỉ còn biết ấp úng đáp:
- Kính lão đắc thọ!
Lão Đinh nghiêm nét mặt, ngưng đọng thần khí, đặt hạt muối vào giữa ống chân của lão và ống chân của đối thủ, hai bên tì mạnh, ép mạnh hạt muối. Cậu thấy cuộc tỉ đấu quá ư ngộ nghĩnh và khó hiểu nhưng không dám hó hé, chỉ trố mắt nhìn... Nhưng hai người kia không đùa tí nào hết. Dường như họ dồn hết tất cả tinh lực vào ống quyển.
Cậu kinh sợ, gương mặt của lão Đinh từ đỏ chuyển sang tai tái. Còn mặt của gã bán chiếu trắng bệch, mồ hôi nhỏ xuống vạt áo. Thoạt đầu cả hai đều đứng tấn, chân tì vào nhau không nhúc nhích. Rồi hình như gã bán chiếu hơi rung người, còn lão Đinh hơi rướn tới. Sau đó, gã bán chiếu phản công, gồng hết cơ bắp đẩy ống chân lão Đinh về chỗ cũ... Nhìn bề ngoài , người ta chỉ tưởng hai người đang thầm thì trò chuyện gì đó. Ai dám nghĩ đến một cuộc đấu nội lực độc đáo như vậy?
Sau cùng, chính gã bán chiếu đầu hàng trước. Gã ngồi bệt xuống đất, thở hổn hển, hai tay ôm lấy ống chân. Lão Đinh cũng kiệt sức, đứng run run, ống chân hơi tím. Cậu cứ tưởng hạt muối đã bị ép vỡ. Nhưng cậu lầm... Lão Đinh đã dùng nội công "ấn" hột muối lút vào ống xương chân của đối thủ. Cậu chỉ biết điều đó khi lão Đinh mang thuốc ra rịt vào vết thương của gã bán chiếu...
Giờ này "sư phụ họ Đinh" nằm bệt kia, mặt giáp mặt với tử thần trong nỗi ám ảnh bị lôi ra khỏi phủ, bị lột trần khi những người tróc quỷ trong đội "Sắc bùa" xuất hiện, mặc dù cái tục lệ lợi hại này đã chấm dứt từ lâu rồi...
Cũng chính lão đã từng đưa cậu về Ngã Ba Nê tham dự hội hát "Sắc bùa" vào một mùa xuân đã qua. Lão bảo, hai mươi bốn năm mới hát một lần. Vào những năm có hát "sắc bùa", dân sở tại làm lễ tế âm hồn vào ngày mười sáu tháng chạp. Sau lễ tế, người ta lập các đội "sắc bùa" có từ mười bốn đến mười sáu thành viên. Một ông Cái Sắc mặc áo mã tiên vẽ rồng phượng, thắt lưng đỏ. Người tróc quỷ ăn mặc giống ông Cái Sắc nhưng tay cầm thanh kiếm gỗ trừ tà, chém quỷ. Một đứa trẻ đóng vai quỷ, tay chân đeo vòng lục lạc. Một ông đánh trống mặc quần trắng, áo dài đen, bịt khăn đóng, đi guốc mộc. Một ông đọc thần chú mặc lễ phục... Và những người khác đi theo hư trương thanh thế khi tróc quỷ... Đội "sắc bùa" tập tành đến hai mươi bốn tháng chạp. Tối ba mươi tết bắt đầu đi "sắc" ở các đình chùa, miếu mạo, rồi đến các nhà thờ họ lớn trong làng, từ mồng một tết mới đi "sắc" cho từng gia đình trong thôn xã... Và đây là những màn "sắc" đầy kịch tính nhất.
Cậu hoàn toàn bị lôi cuốn vào cái không khí vừa hội hè, vừa thần bí, vừa phô bày trắng trợn những tội lỗi của con người và những dục vọng tối tăm của nó mà bình thường dư luận cũng như pháp đình chào thua không phanh phui nổi hoặc không có khả năng phán xét hay trừng phạt... khi theo sau đám hát "sắc" ở một ngôi nhà mới xây kiểu cổ khá bề thế. Lão Đinh khẽ bảo cậu:
- Để ý nghe , trong nhà này chắc lắm trò lạ đấy!
Từ xa, đội "sắc bùa" đã khua chiêng trống, gõ mõ ầm ĩ báo trước cho gia chủ đóng chặt cửa. Đêm vang động, ánh đuốc cũng mờ ảo trong dòng âm thanh lúc ầm ầm, lúc đột ngột lắng xuống nhường chỗ cho những tiếng cồng âm u, lê thê. Cậu hồi hộp nhìn tòa nhà im lìm trong bóng tối phấp phỏng.
Ông Cái Sắc dừng lại trước cánh cổng khép chặt. Đội "sắc bùa" im bặt. Cậu nghe rõ tiếng Cái Sắc xướng:
Đệ tử nhung mang an phù
Thỉnh thiên bồng thiên du
Thỉnh thiên linh huyền đàng thượng tướng
Tật tốc ứng ngô khẩu
Tật tốc ứng ngô thanh...
Sát vạn quỷ trừ tà
Tri quốc gia an trấn...
Cả đội đồng thanh xướng:
Thiên bồng, thiên bồng a hữu đạo là thần thông
Thôi ma thực quỷ a tam sát là yêu tinh
Tự thiên giáp hạ a tróc quỷ là thiên linh
Nhật nguyệt thăng long dân gian hữu khổ
A, thỉnh đáo là thiên bồng!
Cậu không còn nhớ đây chỉ là "trò chơi dân gian". Cậu tưởng như nghe tiếng la hét, tiếng đao chạm nhau trong thế giới âm ty, những bóng ma quỷ chập chùng, tiếng thét gọi truy tróc làm cậu thấy lạnh ghê người :
Nào thằng quỷ là chính tà ma
Mi ở làm chi trong góc nhà
Có lệnh Ngọc Hoàng sai xuống bắt
Bắt thằng quỷ mà chém làm ba...
Mặc dù cậu đã biết "luật chơi": đứa trẻ đóng vai "quỷ" lẻn vào nhà gia chủ từ trước, nấp đâu đó dưới gầm giường hay ngách cửa, tim cậu vẫn không khỏi thóp lại, da nổi mụn ốc khi "con quỷ" đeo lục lạc xuất hiện bất ngờ như vừa mới chui từ dưới địa phủ lên. Con quỷ kêu xin bằng cái giọng nheo nhéo, trọ trẹ càng làm khung cảnh thêm quái dị:
Lạy phép quan thiêng xin tha chớ giết
Thiên thiên vạn vạn mở cửa cho chúng con ra!
Cái Sắc thét hỏi :
Mày là quỷ từ nơi nào tới đây?
Sao lại tác oai tác quái trong nhà này?
Cậu rùng mình nghe con quỷ kể vì sao nó đến ở đây từ mười năm nay. Câu chuyện rùng rợn tưởng như đang được diễn lại ngay trước mắt cậu. Mọi chi tiết xác thực khủng khiếp nhưng càng vì vậy câu chuyện đượm một vẻ gì hoang đường quái đản không thể tin được là người ta đã thực hiện nó ngay trong ngôi làng hẻo lánh này. Cái Sắc vặn tra, cật vấn mỗi lúc một lạnh lùng, nghiệt ngã như một quan tòa. Và con quỷ càng cung xưng rõ ràng, cậu càng tin chắc mình đang ở dưới địa ngục với Diêm Vương và những pháp quan mặt sắt đen xì. Tiếng kêu khóc của oan hồn văng vẳng vọng tới chỗ cậu...
Cánh cổng không thể khép lại được, gia chủ run rẩy chường mặt thanh minh, chạy tội. Gia chủ càng biện bạch, cậu càng tin rằng chính ông ta đã phạm phải tội ác ấy, một tội ác mà pháp luật không tìm ra được một bằng chứng nào khả dĩ kết án được kẻ sát nhân. Nhưng không hiểu sao con quỷ lại biết đầu đuôi vụ án mạng đã xảy ra như thế nào?
Mười năm trước, gia chủ cưới vợ cho con trai cả của mình. Nhưng chính lão ta đã cưỡng hiếp nàng dâu. Đứa con trai đã khám phá ra tội loạn luân của cha, vác gậy đuổi cha từ đầu làng đến cuối làng. Rồi bỗng nhiên đứa con trai của lão chết bỏng khi đang tôi vôi sống thì ngã xuống hố vôi. Những con quỷ lại mách rằng, chính lão giết con trai rồi bày đặt chuyện tôi vôi để hủy tang chứng... Cô con dâu vừa sợ, vừa thù cha chồng, phát điên cũng nhảy xuống một hố vôi đang tôi khác tự vẫn. Nhưng con quỷ tố cáo, chính lão lại dùng cách đó giết nốt người con dâu đã có chửa với lão. Gia chủ tái mặt, cãi không thành tiếng. Có lẽ lão không còn coi đây là một "trò hát xướng mua vui" nữa, mà chính oan hồn của người con trai, con dâu lão hiện về, mượn lời con quỷ đeo lục lạc kia, kể tội sát nhân tàn độc của lão...
Những phiên tòa này có kiểu phán quyết của nó. Ông tróc quỷ, vung cây gươm gỗ "chém"' con quỷ đứt làm ba khúc. Nó dãy đành đạch trong bóng tối, tiếng lục lạc vang lên rổn rảng, rổn rảng... Cái Sắc thản nhiên xướng:
Đông qua xuân đến rất vui sao
Pháo nổ lẫy lừng tiếng biết bao
Nhà này yên ba thêm phú thọ
Bàn thờ tiên tổ khói hương cao!
Một lời chúc tụng ghê rợn gấp mấy lần bản cáo trạng. Tất cả như đùa, như trò chơi, như nỗi ám ảnh địa ngục, lò luyện tội cứ sôi sục lên trong đêm xuân đối với những tội ác trốn tránh được công lý trần gian nhưng không thoát khỏi sự phán xử của tâm linh. "Lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt". Sư phụ họ Đinh lặng lẽ thở dài... Rốt cuộc chỉ có phần "ma quỷ" trong mỗi con người bị hành quyết, còn chính họ lại cùng với cả đội "sắc bùa" đồng thanh hát lên theo lời cầu chúc của Cái Sắc:
Đông qua xuân đến rất vui đời
Tết nhất chơi bời xướng thái bình ca
Đăng trà quả thực hương hoa
Bàn thờ tiên tổ ông bà chiêu đăng...
An tài, an cửa, an nhà
An sàng, an tịch, an hòa thổ công...
Hiện thời, ngọn đèn sinh mệnh của lão lom đom sắp tắt, lão nằm giữa cái phủ cũng thoi thóp không kém gì lão. Thu Niệm bảo chàng, cô ta sẽ vào Lãnh Phố gặp Bất Thức, yêu cầu ông ra ngay Huyền Đô để bàn bạc, thu xếp chuyện bán nhà.
Còn lão Đinh thấp thỏm chờ đợi một đêm nào đó, những người trong đội "sắc bùa" đến tróc quỷ trong tâm hồn lão.
Tối nào, ông lão cũng căn vặn đã chốt cửa ngõ cẩn thận chưa, còn chính ông lão lẩy bẩy cầm đèn hột vịt soi xuống gầm giường, góc nhà ngách cửa để tìm xem có con quỷ nào đã lẻn vào nhà không. Nhưng ông lão vẫn chưa yên lòng, chốc chốc lại hỏi:
- Cậu có nghe thấy gì không?
Chàng quả quyết:
- Ông cứ ngủ đi, không có ai đến đây "sắc" đâu... Còn những chỗ khác cần tróc quỷ hơn là ở đây.
Đến lượt chàng phải làm một cái gì đó giúp vui cho ông lão tạm quên nỗi ám ảnh của cái chết và tâm trạng khao khát sám hối. Nhưng giờ đây ngoài kinh nghiệm quá khứ mà chàng đã từng chia xẻ với ông lão chẳng lẽ chàng lại trút lên "sư phụ họ Đinh" những kinh nghiệm thất bại trong tình trường và kinh nghiệm tù tội đọa đầy của mình?
Không, lão Đinh, đứa con của Ngã Ba Nê, kẻ say hát tuồng và những giấc mộng phù hoa không can cứu gì đến những nguyên nhân hưng, vong, bại, thành.
Và con quỷ mà lão dè chừng sẽ kể tội lão trong đêm "sắc bùa" không nấp dưới gầm giường hay ngách cửa, mà ẩn náu ngay trong tâm thể lão từ những ngày xa xưa, khi lão còn là đứa bé theo bố mẹ, anh chị dắt díu tay bị tay gậy đi hành khất.
Có những chúng sinh lầm lụy vào "hỏa đồ" (con đường lửa - địa ngục) hoặc "huyết đồ" (con đường máu, nơi loài súc sinh hay xâu xé lẫn nhau) hay "đao đồ", (con đường đao kiếm, nơi loài người đâm chém lẫn nhau)... Còn lão tự nhận là mình đã chọn "ảo đồ" (con đường mộng ảo) mà rốt cuộc lão cũng nếm đủ mùi lửa, máu, đao kiếm.
Bước ngoặt xảy ra với lão khi gánh hát của lão nghệ sĩ Tâm Phượng từ Lãnh Phố đến Ngã Ba Nê dựng rạp...
Thoát chết trong Tử Cấm Thành, lão lại rơi vào cơn ác mộng với nỗi ám ảnh tiền oan nghiệp chướng. Cái chết của người cung nữ bị vỡ sọ và đôi mắt lão nghệ sĩ Tâm Phượng mở trừng trừng khi hấp hối... không cho lão ngủ yên. Đêm nào lão cũng mơ thấy không người này thì người kia đứng bên giường lão đòi mạng. Lão đâm ra oán hận "vua điên" khi nghĩ rằng ông ta chỉ giả nhân giả nghĩa tha bổng cho lão và người cung nữ nhưng lại ngầm ra lệnh cho quân cấm vệ chặn giết hai người ngoài cung cấm. Lão càng có thêm lý do để thâm thù hoàng gia, dĩ nhiên trừ hoàng thân Dĩ Cương và những người trong Tường Vi Phủ... Và bây giờ, đáng sợ nhất là món nợ của ông với thằng bé chết vì ăn bã mắm.
Khi ông lão Đinh Đam chỉ còn lại những ngày cuối cùng trong "ảo đồ" của mình, bỗng nhiên bao nhiêu oán giận, nghi kỵ biến đâu mất, chỉ duy nhất con quỷ, quậy phá giữa linh hồn tội nghiệp đơn côi của ông lão.
Một đêm, tưởng chừng nghe thấy tiếng trống khua, tiếng cồng âm u báo hiệu đoàn "sắc bùa" đang tiến về cửa phủ, ông lão vùng dậy, hấp tấp đánh thức chàng:
- Dậy cậu, đến rồi đó! Đi ngay với tôi.
Chàng kinh hoàng nhỏm dậy. Biết là ông lão đang "lên cơn", chàng xót xa đi theo xuống bếp. Cái bếp này cất lại sau khi cái bếp cũ bằng gạch bị một cơn bão phá sập. Ông nội chàng và lão Đinh chỉ đủ sức dựng lại bằng những cột tre bương và lợp tranh. Sau đó, cái bếp bị cháy rụi trong hỏa hoạn...
Ông lão Đinh Đam mò mẫm thắp cây đèn dầu rồi lượn con dao lên. Chàng đâm hoảng không hiểu ông lão tâm thần sẽ làm trò điên gì nữa. Dù sao chàng cũng hơi lùi lại cho chắc ăn. Nhưng ông lão chỉ vung dao chém vào một cái cột tre. Chàng ngạc nhiên, ông lão sắp chết lấy đâu ra sức mạnh chém cột đến thế? Cái bếp rung rinh, bụi, bồ hóng rơi xuống làm chàng ho sặc sụa. Nhưng ông lão vẫn thản nhiên như không, hì hục chẻ đôi cây cột vừa gãy. Những đồng tiền đúc trong ruột cây bương văng ra cùng vô số cứt mối. Mắt ông lão sáng rực, hai bàn lay gầy guộc run rẩy vốc cả nạm những xu, chinh vuông tròn, to nhỏ đủ loại bằng đồng hoặc kẽm, đưa lên cho chàng:
- Chừng này đủ cho cậu cưới vợ chưa? Đừng bán phủ thờ nhé?
Chàng đứng chết lặng. Ông lão đã lú lẫn nếu không muốn nói là mất trí. Tất cả những đồng tiền ông lão cất giấu, dành dụm phỏng còn chút giá trị nào trên thương trường hôm nay? Từ khi ông lão cất giấu đồng xu đầu tiên đến nay đã bao nhiêu biến cố xảy ra, đã bao triều đại đổ nát và đã bao nhiêu lần đổi tiền. Hai ông lão tự chôn mình trong phủ hầu như không còn thuộc về cái thế giới có sinh có diệt, biến hóa từng giờ từng ngày này nữa.
Chàng không dám khóc, cũng không dám đánh thức kẻ mộng du, chỉ khẽ gật đầu, lắp bắp trấn an ông lão:
- Đủ hay không thì cháu cũng sẽ không cần bán cái phủ thờ đâu, ông yên chí đi.
Ông lão cười bối rối, thọc tay vào đống cứt mọt, móc ra một cái gói to hơn bàn tay.
- Chưa hết. Cậu xem này!
Chàng ngơ ngác nhận cái gói từ bàn tay run rẩy của ông lão. Trong lúc chàng cẩn thận mở cái gói, ông lão thở dài, thú nhận:
- Cậu tha tội cho lão. Ngày ấy, nhân trận lụt, lão ăn trộm cái bảo bối này của cụ hoàng thân. Cũng chẳng biết ăn trộm để làm gì? Có thể lão nói chẳng ai tin. Lão là con nhà ăn mày, lão thèm thuồng muốn xem người ta chép tên những ông hoàng, bà chúa trong cái cuốn Kim Sách- Cuốn sách bằng Vàng, như thế nào: Lão giấu vào trong cái cột này. Rồi lão sợ cụ hoàng thân phát giác, phải giả quên mấy chục năm nay...
Chàng sửng sốt. Không tin vào mắt mình. A, hóa ra đây là cuốn Kim Sách đã bị thất lạc mà ông nội chàng đã từng đau khổ, tuyệt vọng tìm kiếm bằng ấy năm sao? Đến lượt chàng run run mở nó ra. Trời ơi, thế là "châu lại về Hợp Phố" ư? Tay chàng bóp hơi mạnh, tự nhiên từng tờ Kim Sách mủn ra. Chàng giật mình. Những lá vàng sao lại mủn nát như vậy. Chàng sợ điếng người khi bóp mạnh hơn. Những lá vàng vụn ra thành cám. Chàng choáng váng. Không, đây không phải những lá vàng. Đây chỉ là những lá đồng bị ô-xy hóa qua thời gian!
Chàng cắn chặt môi. Lão Đinh run run hỏi:
- Liệu bán những lá vàng này đã đủ cho cậu, ông Quán Thức và cô Thu Niệm mà không cần bán phủ Tường Vi chia nhau?
Chàng bật khóc. Khóc thật. Khóc không che giấu. Không ngượng ngùng. Không dè xẻn. Hóa ra ông nội chàng và các vị hoàng thân khác đã toa rập với nhau tháo những lá vàng thật đem bán để chia nhau và đánh tráo vào đấy những lá đồng mạ vàng. Trời ơi, thế mà chính ông nội chàng đóng kịch với cả chàng khi đau khổ, than khóc thảm thiết vì việc "Kim Sách" bị mất cắp! A, ha, chàng và những kẻ thừa kế trong phủ Tường Vi được thừa kế những lá vàng mạ!
Chàng biết rõ "con quỷ" trong linh hồn ông lão vừa bị chính ông lão chém đứt làm ba khúc bằng cái sự thú nhận tội ăn trộm Kim Sách của hoàng gia. Bây giờ đến lượt ông nội chàng và những bậc cha chú của chàng, dù đã chết vẫn phải run sợ chờ đợi "sắc bùa" đến tróc nã "con quỷ" trong tâm hồn những kẻ ăn trộm của thừa kế và đánh tráo các giá trị thực!
Kết tội ông nội mình và các bậc trưởng lão trong hoàng gia như vậy, chàng cảm thấy mình đã quá bất công và tàn nhẫn với mẹ chàng. Phải, mẹ chàng đã từng phải bán mình cho lũ đàn ông chơi bời, trác táng. Nhưng bà chỉ bán cái có thật của mình. Bà không đánh tráo bất cứ cái gì . Bây giờ, bà lại đem cái thân xác có thật một trăm phần trăm của bà, làm mẫu cho đứa con nghèo đói của bà vẽ tranh và đem bán. Như vậy, nhân cách bà còn cao chán vạn hơn các hoàng thân- những kẻ lên án, khinh miệt bà!
Chàng sốt ruột quay quắt. Bệnh lão Đinh ngày càng trầm trọng. Không một lá thư hồi âm cho chàng từ Lãnh Phố của ông chú chàng. Thu Niệm cũng chưa có tin gì.
Chàng không ngờ rằng, đêm ấy, một trận lũ quét chưa từng thấy trong lịch sử Huyền Đô tràn xuống bất thần, nhận chìm tất cả trong dòng xoáy khủng khiếp của nó. Chàng chỉ kịp bồng lão Đinh chạy lên một mô đất gần đấy trước khi phủ Tường Vi ụp xuống và bị cuốn phăng đi...
Không tìm thấy một chỗ nào khô ráo hơn, chàng đành đặt lão Đinh lên đám cỏ lấp xấp nước và bùn. Mưa và gió gào thét dữ dội. Lão Đinh run cầm cập, hai cái hàm móm mém không còn chiếc răng nào, đập vào nhau lập bập:
- Lão ném xác nó xuống sông... Nó giận, nó thù lão... nó đấy... Nó đang ngóc đầu trên đám cây cối trôi lềnh bềnh kia, hú gọi lão. Nó bắt lão đền mạng đấy.
Chàng đứng lặng, nhìn xuống mặt nước mênh mông. Không thấy một dấu vết nào của phủ Tường Vi. Trận lũ đã xóa sạch nó, như nó chưa bao giờ hiện hữu trên mặt đất này...
Nhưng chàng chẳng có nhiều thời giờ để tiếc nuối, thương xót cái phủ kia, đỉnh lũ ập xuống, cuốn phăng cả chàng và lão Đinh vào bóng tối của đêm- kẻ hủy diệt không nương tay mọi vật rơi vào cạm bẫy của nó!
Chàng chỉ kịp quờ tay kéo ông lão đang mê man, nước lũ đã tống thật mạnh vào lưng làm chàng tối tăm mặt mũi, vùng vẫy hoàn toàn chỉ bởi bản năng sinh tồn. Một tay chàng túm áo ông lão, một tay quờ quạng, cố không để lọt vào vòng xoáy.
Đột nhiên ông lão tỉnh lại, ngóc đầu lên, khiếp hãi kêu to:
- Trời... Ngã... Ba... Nê...
Chàng chưa hiểu nguyên do nào khiến ông lão kêu lên như vậy đã thấy bàn tay đang túm áo ông lão nhẹ bẫng. Chàng hoảng hốt cố quay lại tìm ông lão nhưng ông lão đã biến mất giữa làn nước lạnh buốt và cuồn cuộn. Trong tay chàng chỉ còn lại manh áo của ông lão. Chàng chợt hiểu, chính ông lão tự cởi áo, buông người theo nước lũ. Ông lão sinh ra ở Ngã Ba Nê và bây giờ về với Ngã Ba Nê. Trâu đất đã về với biển...
Cơn lũ cuốn chàng xuống hạ lưu, chỉ có một sự may mắn hi hữu mới khiến chàng sống sót nhờ tấp vào chân một ngọn đồi...
Sau những cơn mưa cuối cùng trong năm, trời hửng lên đôi chút và heo may thổi về.
Chi Nguyên tỉnh dậy, ngơ ngác không hiểu chuyện gì đã xảy ra với mình. Nhờ những người chung quanh kể lại, chàng mới hay, Huyền Đô vừa trải qua một thảm họa không tiền khoáng hậu. Và chàng được cứu sống nhờ những người trong đội cứu hộ...
Giờ đây chàng đã trắng tay. Cơn lũ dường như đã quét sạch khỏi chàng mọi tàn tích của quá khứ, cả đau khổ, vấp ngã đến những nỗi thất lạc và nhục nhã. Chàng như được hoài thai lần thứ hai trong trận lũ và quay lại cuộc sống như một đứa trẻ sơ sinh...