Mẹ tôi càng ngày càng buồn phiền. Thấy tôi chẳng tưởng gì đến chuyện vợ con, mẹ nhắc nhở 5 lần 7 lượt, tôi vẫn trơ trơ. Lúc trước, hồi tôi mới về làng dạy học, mẹ mừng lắm. Mẹ vui khi tôi ở cạnh mẹ. Bây giờ mẹ lại muốn tôi ra thành phố. Mẹ than vãn: "Con gái Đo Đo chưa kịp lớn đã rời làng đi biệt, thằng Ngạn dại dột quay về đây, chắc lủi thủi suốt đời!". Thấy mẹ lo âu, ca cẩm, tôi thương mẹ, cũng muốn lặp gia đình. Nhưng mối tình đau khiến tôi mệt mỏi, tuổi mới ngoài 30 mà lòng đã then cài.
Mẹ tôi lo. Nhưng có người còn lo cho tôi hơn mẹ. Đó là mẹ Hà Lan. Bà chẳng hề nhắc nhở tôi chuyện vợ con nhưng ánh mắt xót xa của bà mỗi lần nhìn tôi đã nói lên tất cả, những muộn phiền pha lẫn buồn thương. Bà đã nhận ra tình cảm sâu nặng của tôi đối với Hà Lan ngay từ khi chúng tôi còn nhỏ, dẫu bấy giờ tôi và Hà Lan vẫn chỉ là đôi bạn thơ ngây. Và hơn 20 năm qua, không hề bước chân ra khỏi làng, bằng nỗi mong ngóng và lo âu khôn nguôi của người mẹ, bà vẫn âm thầm theo dõi cuộc hành trình của 2 số phận không may. Hà Lan cuộc đời dang dở, bà bạc nửa đầu. Đời tôi dang dở vì Hà Lan, tóc bà trắng hết phần còn lại. Tuổi già chưa kịp chạm tay, bà đã sầu héo vội vàng. Thấy bà thương tôi mà tôi ứa nước mắt.
Có phải vì thấy thời gian cứ lầm lũi trôi mà tình tôi rong rêu níu giữ nên hôm Hà Lan về làng mới đây, bà đã nói chuyện với Hà Lan suốt một đêm đèn chong bên vách liếp. Lúc chập tối, tôi tình cờ bước vào và ngạc nhiên thấy 2 mẹ con lập tức nín thinh. Mẹ Hà Lan lặng lẽ đưa tay vặn bấc ngọn đèn dầu. Còn Hà Lan giật mình ngó ra và tôi bàng hoàng khi nhìn thấy những giọt lệ long lanh trên mắt nó. Đôi mắt Hà Lan đêm nay sao u uẩn lạ lùng. Lần đầu tiên đôi mắt đó nhìn tôi thăm thẳm, dạt dào, như chứa cả một trời tâm sự. Tôi như bị điện giật, tim thót lại và ấp úng cáo lui.
Ra khỏi nhà, chân tôi còn lao đao. Mặt mày nóng ran, lòng tôi bỗng chốc sóng cồn. Hà Lan, tại sao em nhìn tôi xốn xang như muốn nói điều gì? Có phải ánh trăng xưa gọi em về lại, con đường làng năm nào 2 đứa cùng đi? Hay em lo tôi thương hoài ngàn năm, lấy em chẳng đặng, tôi chẳng lấy ai, lòng trơ như đá núi? Tôi bồi hồi suốt đêm không ngủ được, cứ trằn trọc trên giường chờ sáng mai ra.
Sáng mai ra, Hà Lan về thành phố. Tôi thấp thỏm đến chơi, mẹ Hà Lan chẳng thấy nói gì. Suốt ngày hôm đó tôi ở chơi bên bà, bà vẫn lặng thinh. Mặt bà rầu rầu, đôi khi tôi liếc thấy.
Thái độ của mẹ Hà Lan làm tôi thêm thắc mắc và hồi hộp. Chuyện đêm qua hẳn là trọng đại, ánh mắt Hà Lan cứ ám ảnh tôi hoài. Đến tối, không chịu đựng nổi cảm giác nặng nề trong ngực, tôi nín thở hỏi:
- Bác ơi, chuyện gì...
Đang nói, tôi cảm thấy lúng túng và im bặt. Tôi thấy câu hỏi của tôi kỳ cục làm sao. Nhưng mẹ Hà Lan đã đọc được trong mắt tôi những gì tôi muốn nói. Bà dịu dàng nhìn tôi, giọng trầm buồn:
- Mọi việc đã xong, cháu ạ.
Tôi ngớ người ra, không hiểu mẹ Hà Lan định nói gì. Câu trả lời của bà sao mà mờ mịt.
- Xong chuyện gì kia, bác? - Tôi rụt rè hỏi.
Mẹ Hà Lan không nhìn tôi nữa. Bà nhìn ngọn đèn, nói như nói với ánh lửa hắt hiu:
- Bác thương cháu. Bác thương Hà Lan. Đời đứa nào cũng khổ, bác muốn 2 đứa sống với nhau. Đêm qua bác đã nói chuyện với Hà Lan.
Tôi nghe lồng ngực mình như sắp nổ tung. Tôi phải cắn chặt môi, không dám thở mạnh. Tiếng mẹ Hà Lan vẫn đều đều, càng về cuối càng nhẹ như gió thoảng:
- Hà Lan cũng muốn lập gia đình, nó đã lớn tuổi rồi. Nhưng nó nhật định... không lấy cháu. Cháu đã đối xử với nó quá tốt. Nó bảo vậy.
Trong chốc lát, tôi như lịm người đi. Có phải bên trời, ai mới vừa thổi tắt một vì sao biếc?
Những ngày sau đó là những ngày nặng nề. Tôi đã kịp trấn tĩnh để hiểu rằng những lời nói của Hà Lan là những lời phán quyết khắc khe của định mệnh. Những phán quyết đó, tôi không mong gì thay đổi. Bây giờ ngồi nghĩ lại, tôi biết Hà Lan hẳn đã hiểu rõ lòng tôi từ lâu. Nó cũng biết tình tôi dành cho nó không bến không bờ. Nhưng nó thích xa đi, tôi thích quay về, 2 người 2 thiên hướng khác nhau, đời chia 2 ngã, gần 20 năm qua khổ ai nấy chịu. Hà Lan đã tự chọn lấy con đường riêng cho mình, con đường đó không có tôi. Bây giờ, sau 2 lần gãy đổ, mộng ước không thành, chút duyên lỡ nó không nỡ dành cho tình tôi vằng vặc. Hèn gì đôi mắt nó đêm nào nhìn tôi chan chứa. Nhìn một lần rồi mãi mãi quay lưng. Tình bạn thuở thiếu thời bao năm qua vẫn chỉ là tình bạn, lòng tôi cứ hoài trinh bạch quạnh hiu.
Tôi nhớ Hàn Mặc Tử:
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn kia bỗng dại khờ
Một thời gian dài, tôi tưởng tôi đã chết. Nhưng tôi không chết được. Trà Long đã học xong lớp 9, chuẩn bị ra thành phố, tôi cố nén buồn thương để lo cho nó.
Trà Long không học tiếp lớp 10. Nó thi vào trường trung học sư phạm, 3 năm sau quay về làng dạy học. Nó bảo:
- Cháu sẽ về lại. Cháu sẽ ở bên chú.
ý định của Trà Long giúp tôi khuây khỏa. Nó luôn luôn làm tôi ngạc nhiên. Đôi khi tôi có cảm tưởng Trà Long sinh ra là để thực hiện những điều tôi đã hoài công chờ đợi ở Hà Lan.
Thành phố lúc này đã mở trường sư phạm. Trà Long không phải ra Quy Nhơn. Ngày Trà Long lên đường, tôi cùng đi với nó. Đó là một chuyến hành trình lý thú. Tôi đã đưa Trà Long ra thành phố nhiều lần nhưng chưa lần nào nó tỏ ra phấn khích và vui vẻ như vậy. Dọc đường, Trà Long cứ ríu rít luôn miệng. Lớn rồi, mà sao nó giống như một chú chim non. Phải chăng đó là tâm trạng của một thiếu nữ sắp thành người lớn và chuyến đi này đối với nó là chuyến đi vào tương lai mong đợi, nơi những giấc mơ xanh một sớm mai kia sẽ thức dậy bên người.
Trà Long không ở chung với Hà Lan. Nó ở nhà bà cô, lặp lại chặng đường xưa của mẹ nó. Hãng sản xuất vỏ xe ô-tô của ông dượng đã giải tán từ lâu. 2 vợ chồng già bây giờ chẳng làm gì, sống nhàn nhã bằng tiền tiết kiệm. Ông dượng tiêu tháng ngày vào thú chơi hoa và cây kiểng, lúc nào cũng cặm cụi tỉa lá bắt sâu. Bà cô thì giết thì giờ trong sòng tứ sắc, đêm đi nằm cứ than vãn đau lưng.
Cũng giống như Hà Lan xưa, Trà Long được vợ chồng bà cô cưng chiều hết mực. Nhưng nó chẳng ham chơi, suốt ngày chỉ biết chúi đầu vào tập, mong chóng ra trường về lại Đo Đo.
Tôi ở lại làng, ngày ngày dạy học, thỉnh thoảng mơ màng ngồi ôn lại tình yêu qua. Hy vọng không còn, nỗi đau cũng lặn. Tình yêu năm nào như ngọc đã bụi mờ, chỉ phát sáng những đêm nằm trằn trọc.
Trà Long ít về thăm tôi. 2,3 tháng, nó mới về làng một lần. Tôi buồn rầu hỏi:
- Sao cháu ít về?
Nó cười:
- Cháu bận học. Cháu ráng học thật giỏi. Cháu sợ ở lại lớp.
Trà Long chỉ nói vậy thôi, nhưng tôi hiểu. Tôi âu yếm nhìn nó, lòng bồi hồi cảm động. Hóa ra nó cũng bồn chồn mong mỏi như tôi. Nó cũng nôn nao đợi ngày ra trường để sớm về với quê làng, với ngoại. Và với tôi, hẳn thế. Nó sợ học đúp thêm vài năm, ngày trở về sẽ xa lăng lắc.
Tôi dịu dàng nói:
- ừ, cháu ráng lo học. Đừng về làng thường xuyên làm gì!
Trà Long tròn mắt nhìn tôi:
- Chú nói thật không?
Tôi ngạc nhiên:
- Sao cháu lại hỏi thế?
Trà Long cắn môi:
- Tại cháu thấy chú buồn buồn.
Tôi mỉm cười:
- Đó là khi nãy. Bây giờ chú hết buồn rồi.
Trà Long nhìn tôi chăm chăm:
- Chú cười giả vờ.
- Đâu có. Chú cười thật mà.
Trà Long vẫn chưa chịu. Nó nói:
- Cười thật là phải cười thành tiếng kia!
Tôi đành phải bắt mình cười thành tiếng. Chắc tiếng cười của tôi nghe kỳ cục lắm nên Trà Long che miệng cười theo. Rồi nó gật gù nhận xét;
- Bây giờ cháu mới tin là chú đã thôi buồn.
Đang nói, bỗng nhiên Trà Long quay phắt người đi, mái tóc dài bay tung trong gió. Tôi chưa kịp hiểu ra chuyện gì đã nghe đằng sau suối tóc lững lơ kia có ai đó đang nói với tôi những lời thì thầm êm ái, những lời thì thầm tôi tưởng gặp trong mơ.
- Nhưng thôi, chú đừng buồn nữa. Mùa hè sắp đến rồi. Hè này cháu sẽ về làng. Cháu sẽ sống suốt 3 tháng hè bên cạnh bà ngoại, chú không vui sao?
Trong một thoáng, tôi bỗng ngỡ ngàng, biết rằng Trà Long đã lớn. Và tự dưng tôi nghe lòng xao xuyến, có phải trong vườn tôi vừa nở một nụ hồng?
Mùa hè tươi đẹp của tôi, Hà Lan đánh mất, gần 20 năm sau Trà Long đem về lại, đủ đầy biếc thắm hồng tươi.
Mùa hè phượng vĩ ra hoa, hoa thôi giống như tim vỡ. Hoa phượng nở khắp đường làng, tôi đi dưới hạ hồng, lòng như tết sớm. Những nôn nao một thời thơ dại, tưởng như ký ức ngủ vùi, nay bỗng dưng theo về bỡ ngỡ.
Suốt 3 tháng hè, tôi đến với Trà Long, 2 chú cháu không rời nhau nửa bước. Ngày ngày, tôi dẫn Trà Long đi câu trên suối Lá, nơi ngày nào thầy Cải vẫn lang thang. Tôi và Trà Long ngồi im lặng bên nhau trên bãi cỏ ven suối, tai lơ đãng nghe chim kêu trong lá, mắt dõi theo những cánh hoa rụng đang lững lờ trôi theo dòng nước, thỉnh thoảng lại vướng vào chiếc phao điên điển đang bập bềnh chờ cá cắn câu. Hai chú cháu cứ ngồi thinh như đá, có khi suốt buổi không nói với nhau một tiếng nào. Mà sao, trong lặng lẽ, ánh mắt mỗi người đều ấm áp, long lanh.
Đi câu chán, tôi và Trà Long lại đạp xe vào rừng Sim. Trà Long đã lớn, nó chẳng khoái hái sim nhét đầy 2 túi như ngày nào. Nó cũng chẳng buồn bắt tôi hái trâm cho nó ăn tím miệng, hái chà là cho gai chích đau tay. Trong những niềm vui thời niên thiếu, bây giờ Trà Long chỉ còn thích mỗi trò hái bông dủ dẻ bỏ trong túi áo, để cho hương đượm 3 ngày. Vậy thôi. Rồi hái hoa sim, đóa cầm trên tay, đóa cài trên tóc và đi thơ thẩn qua các nẻo rừng chiều, chẳng có ý định gì rõ rệt, chỉ để bồi hồi nghe gió lướt qua vai, tóc bay như khói
Tôi đi bên, lòng vui không tiếng, tưởng như thế giới vừa được sửa sang. Tâm hồn tôi ai vừa trang hoàng lại, để bên cạnh nỗi đau vơi kịp có nỗi vui đầy, để tiếng chuông mùa phục sinh reo leng keng trong ngực, suốt 3 tháng phượng hồng không một bóng mây giăng.
Chỉ có những ngày cuối cùng, mây mùa thu chớm vắt ngang cành phượng và trên những ngọn cây cao tiếng ve thi nhau khản giọng dần, tôi mới buồn chút chút.
Trà Long biết tôi buồn, nó chẳng nói gì, chỉ thở dài. ánh mắt nó cũng buồn như tôi vậy.
Trước lúc rời làng, Trà Long chỉ nói mỗi một câu:
- Vậy là chỉ còn 2 năm nữa.
Câu nói bình thường sao tôi nghe như lời ước hẹn. Tôi ngỡ tôi vừa mới sinh ra.