Mắc kê chiêu an, Minh Sơn mất mạng,
Đoạn Tràng rút số, kiều nữa nhẹ thân.
Thừa cơ trúc chẻ, ngói tan
Binh uy từ đấy sấm ran trong ngoài
Triều đình riêng một góc trời
Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà
Đòi cơn gió quét mưa sa
Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam
Phong trần, mài một lưỡi gươm
Những loài giá áo, túi cơm sá gì!
Nghênh ngang một cõi biên thùy
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương
Trước cờ ai dám tranh cường
Năm năm hùng cứ một phương hải tần
Có quan Tổng đốc trọng thần
Là Hồ Tôn Hiến, kinh luân gồm tài
Đẩy xe vâng chỉ đặc sai
Tiện nghi bát tiễu, việc ngoài đổng nhung
Biết Từ là đấng anh hùng
Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn
Đóng quân, làm chước chiêu an
Ngọc, vàng, gấm vóc, sai quan thuyết hàng
Lại riêng một lễ với nàng:
Hai tên thể nữ, ngọc vàng nghìn cân
Tin vào gửi trước trung quân
Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ
Một tay gây dựng cơ đồ
Bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung hoành!
Bó thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu?
Aáo xiêm buộc trói lấy nhau
Vào luồn ra cúi, công hầu mà chi!
Sao bằng riêng một biên thùy
Sức này đã dễ làm gì được nhau
Chọc trời, khuấy nước, mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai.
Nàng thì thật dạ tin người
Lễ nhiều, nói ngọt, nghe lời dễ xiêu
Nghĩ mình mặt nước cánh bèo
Đã nhiều lưu lạc, lại nhiều gian truân
Bằng nay chịu tiếng vương thần
Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì
Công, tư, vẹn cả hai bề
Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương
Cũng ngôi mệnh phụ đường đường
Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha
Trên vì nước, dưới vì nhà
Một là đắc hiếu, hai là đắc trung
Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng
E dè gió dập, hãi hùng sóng và.
Nhân khi bàn bạc gần xa
Thừa cơ, nàng mới bàn ra nói vào
Rằng: Ơn Thánh đế dồi dào
Tưới ra đã khắp, thấm vào đã sâu
Bình thành công đức bấy lâu
Ai ai cũng đội trên đầu biết bao
Ngẫm từ dấy việc binh đao
Đống xương vô định đã cao bằng đầu
Làm chi để tiếng về sau
Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào
Sao bằng lộc trọng, quyền cao
Công danh ai dứt lối nào cho qua?
Nghe lời nàng nói mặn mà
Thế công, Từ mới đổi ra thế hàng
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng
Hẹn kỳ thúc giáp, quyết đường giải binh
Tin lời thành hạ yêu minh
Ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng
Việc binh bỏ chẳng giữ giàng
Vương sư dò đã tỏ tường thực hư
Hồ-công quyết kế thừa cơ
Lễ tiên, binh hậu, khắc cờ tập công
Kéo cờ chiêu phủ tiên phong
Lễ nghi giàn trước, bác đồng phục sau
Từ-công hờ hững biết đâu?
Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên
Hồ-công ám hiệu trận tiền
Ba bề phát súng, bốn bên kéo cờ
Đang khi bất ý chẳng ngờ
Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn!
Tử sinh, liều giữa trận tiền
Dạn dầy cho biết gan liền tướng quân!
Khí thiêng khi đã về thần
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng
Trơ như đá, vững như đồng
Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời
Quan quân truy sát đuổi dài
Âầm ầm sát khí, ngất trời ai đang
Trong hào, ngoài lũy, tan hoang
Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi
Trong vòng tên đá bời bời
Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ
Khóc rằng: Trí, dũng có thừa
Bởi nghe lời thiếp đến cơ hội này!
Mặt nào trông thấy nhau đây?
Thà liều sống chết một ngày với nhau!
Dòng thu như xối cơn sầu
Dứt lời, nàng cũng gieo đầu một bên
Lạ thay oan khí tương triền!
Nàng vừa phục xuống, Từ liền ngã ra
Quan quân, kẻ lại người qua
Xót nàng, sẽ lại vực ra dần dần
Đem vào đến trước trung quân
Hồ-công thấy mặt, ân cần hỏi han
Rằng: Nàng chút phận hồng nhan
Gặp cơn binh cách, nhiều nàn cũng thương!
Đã hay thành toán miếu đường
Chấp công cũng có lời nàng mới nên
Bây giờ sự đã vẹn tuyền
Mặc lòng nghĩ lấy, muốn xin bề nào?
Nàng càng giọt ngọc tuôn đào
Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng
Rằng: Từ là đấng anh hùng
Dọc ngang trời rộng, vẫy vùng bể khơi
Tin tôi nên quá nghe lời
Đem thân bách chiến làm tôi Triều đình
Ngỡ là phu quí phụ vinh
Ai ngờ một phút tan tành thịt xương!
Năm năm trời bể ngang tàng
Dẫn mình đi bỏ chiến tràng như không
Khéo khuyên kể lấy làm công
Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu!
Xét mình công ít, tội nhiều
Sống thừa, tôi đã nên liều mình tôi!
Xin cho thiển thổ một đôi
Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh.
Hồ-công nghe nói thương tình
Truyền cho kiểu táng di hình bên sông.
Trong quân mở tiệc hạ công
Xôn xao tơ trúc, hội đồng quân quan
Bắt nàng thị yến dưới màn
Giở say, lại ép vặn đàn nhặt tâu
Một cung gió tủi mưa sầu
Bốn dây rỏ máu năm đầu ngón tay
Ve ngâm, vượn hót, nào tày
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày, rơi châu
Hỏi rằng: Này khúc ở đâu?
Nghe ra muôn oán, nghìn sầu lắm thay!
Thưa rằng: Bạc mệnh khúc này
Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ
Cung cầm, lựa những ngày xưa
Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!
Nghe càng đắm, đắm càng say
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!
Dạy rằng: Hương hỏa ba sinh
Dây loan xin nối cầm lành cho ai.
Thưa rằng: Chút phận lạc loài
Trong mình, nghĩ đã có người thác oan
Còn chi nữa, cánh hoa tàn
Tơ lòng đã dứt, dây đàn Tiểu lân
Rộng thương còn mảnh hồng quần
Hơi tàn được thấy gốc phần là may!
Hạ công chén đã quá say
Hồ công đến lúc rạng ngày nhớ ra
Nghĩ mình phương diện quốc gia
Quan trên nhắm xuống, người ta trông vào
Phải tuồng trăng gió hay sao?
Sự này, biết tính thế nào được đây?
Công nha vừa buổi rạng ngày
Quyết tình, Hồ mới đoán ngay một bài
Lệnh quan ai dám cãi lời?
Eép tình mới gán cho người thổ quan
Ông tơ thực nhé đa đoan!
Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên?
Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền
Lá rèm rủ thấp, ngọn đèn khêu cao
Nàng càng ủ liễu phai đào
Trăm phần, nào có phần nào phần tươi
Đành thân cát dập sóng vùi
Cướp công cha mẹ, thiệt đời thông minh!
Chân trời, mặt bể, lênh đênh
Nắm xương biết gửi tử sinh chốn nào?
Duyên đâu, ai dứt tơ đào?
Nợ đâu, ai đã dắt vào tận tay?
Thân sao, thân đến thế này?
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi!
Đã không biết sống là vui
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!
Một mình cay đắng trăm đường
Thôi thì nát ngọc, tan vàng, thì thôi!
Mảnh trăng đã gác non đoài
Một mình luống những đứng ngồi chưa xong
Triều đâu nổi sóng đùng đùng
Hỏi ra mới biết là sông Tiền-đường
Nhớ lời thần mộng rõ ràng
Này thôi hết kiếp đoạn tràng là đây!
Đạm Tiên, nàng nhé có hay?
Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta.
Dưới đèn sẵn bức tiên hoa
Một thiên tuyệt bút, gọi là để sau
Cửa bồng vội mở rèm châu
Trời cao, sông rộng, một màu bao la
Rằng: Từ công hậu đãi ta
Xót vì việc nước mà ra phụ lòng
Giết chồng mà lại lấy chồng
Mặt nào mà lại đứng trong cõi đời?
Thôi thì một thác cho rồi
Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông!
Trông vời con nước mênh mông
Đem mình gieo xuống giữa dòng tràng giang
Thổ quan theo với vội vàng
Thì đà đắm ngọc, chìm hương cho rồi!
Thương thay! Cũng một thân người
Hại thay! Mang lấy sắc tài làm chi?
Những là oan khổ lưu ly
Chờ cho hết kiếp, còn gì làthân?
Mười lăm năm, bấy nhiêu lần
Làm gương cho khách hồng quần thử soi
Đời người đến thế thì thôi!
Trong cơ âm cực, dương hồi khôn hay
Mấy người hiếu nghiã xưa nay
Trời làm chi đến lâu ngày càng thương
Giác Duyên từ tiết giã nàng
Đeo bầu quảy níp, rộng đường vân du
Gặp bà Tam hợp đạo cô
Thong dong, hỏi hết nhỏ to sự nàng:
Người sao hiếu nghiã đủ đường
Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?
Sư rằng: Phúc họa đạo Trời
Cỗi nguồn, cũng ở lòng người mà ra
Có Trời mà cũng tại ta
Tu là cõi phúc, tình là dây oan
Thúy Kiều sắc sảo, khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
Lại mang lấy một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong
Vậy nên những chốn thong dong
Ơở không yên ổn, ngồi không vững vàng
Ma đưa lối, quỷ đưa đường
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi
Hết nạn ấy, đến nạn kia
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần
Trong vòng giáo dựng, gươm trần
Kề lưng hùm sói, gửi thân tôi đòi
Giữa dòng nước dẫy sóng giồi
Trước hàm rồng cá, gieo mồi vắng tanh
Oan kia theo mãi với tình
Một mình mình biết, một mình mình hay
Làm cho sống đọa thác đầy
Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi!
Giác Duyên nghe nói rụng rời:
Một đời nàng nhé! Thương ôi còn gì?
Sư rằng: Song chẳng hề chi
Nghiệp duyên cân lại, nhắc đi còn nhiều
Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều
Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm
Lấy tình thâm, trả nghiã thâm
Bán mình đã động hiếu tâm đến Trời
Hại một người, cứu một người
Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng
Thực công đức ấy ai bằng
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi
Khi nên, Trời cũng chiều người
Nhẹ nhàng nợ trước, đền bồi duyên sau
Giác Duyên dầu nhớ nghiã nhau
Tiền Đường thả một bè lau rước người
Trước sau cho vẹn một lời
Duyên ta mà cũng phúc Trời chi không?
Giác Duyên nghe nói mầng lòng
Lân la tìm thú bên sông Tiền đường
Đánh tranh, chụm nóc thảo đường
Một gian nước biếc, mây vàng chia đôi
Thuê năm, ngư phủ hai người
Đóng thuyền chực bến, kết chài giăng sông
Một lòng chẳng quản mấy công
Khéo thay! Gặp gỡ cũng trong chuyển vần
Kiều từ gieo xuống dòng ngân
Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi
Ngư ông kéo lưới vớt người
Ngẫm lời Tam hợp rõ mười chẳng ngoa!
Trên mui lướt thướt áo là
Tuy dầm hơi nước, chưa lòa bóng gương
Giác Duyên nhận thật mặt nàng
Nàng còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai
Mơ màng phách quế, hồn mai
Đạm Tiên, thoắt đã thấy người ngày xưa
Rằng: Tôi đã có lòng chờ
Mất công mười mấy năm thừa ở đây
Chị sao phận mỏng, đức dày?
Kiếp xưa đã vậy, lòng này dễ ai!
Tâm thành đã thấu đến Trời
Bán mình là hiếu, cứu người là nhân
Một niềm vì nước vì dân
Âm công cất một đồng cân đã già
Đoạn trường sổ, rút tên ra
Đoạn trường thơ, phải đưa mà trả nhau
Còn nhiều hưởng thụ về sau
Duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào.
Nàng còn ngơ ngẩn biết sao
Trạc Tuyền! nghe tiếng gọi vào bên tai
Giật mình thoắt tỉnh giấc mai
Bâng khuâng, nào đã biết ai mà nhìn
Trong thuyền, nào thấy Đạm Tiên?
Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề
Thấy nhau mầng rỡ trăm bề
Dọn thuyền, mới rước nàng về thảo lư
Một nhà chung chạ sớm trưa
Gió trăng mát mặt, muối dưa chay lòng
Bốn bề bát ngát mênh mông
Triều dâng hôm sớm, mây lồng trước sau
Nạn xưa, trút sạch lầu lầu
Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này.
Nỗi nàng tai nạn đã đầy
Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương
Từ ngày muôn dặm phù tang
Nửa năm ở đất Liêu dương lại nhà
Vội sang vườn Thúy dò la
Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa
Đầy đường cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Xập xè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày
Cuối tường gai gốc mọc đầy
Đi về, này những lối này năm xưa
Chung quanh lặng ngắt như tờ
Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?
Láng giềng có kẻ sang chơi
Lân la sẽ hỏi một hai sự tình
Hỏi ông, ông mắc tụng đình
Hỏi nàng, nàng đã bán mình chuộc cha
Hỏi nhà, nhà đã dời xa
Hỏi chàng Vương với Vương bà, Thúy Vân
Đều là sa sút, khó khăn
Thuê may, bán viết, kiếm ăn lần hồi
Điều đâu sét đánh lưng trời
Thoạt nghe, chàng thoắt rụng rời xiết bao!
Vội han di trú nơi nao?
Đánh đường, chàng mới tìm vào tận nơi
Nhà tranh, vách đất tả tơi
Lau treo rèm nát, trúc gài phên thưa
Một sân đất cỏ dầm mưa
Càng ngao ngán nỗi, càng ngơ ngẩn dường!
Đánh liều lên tiếng ngoài tường
Chàng Vương nghe tiếng, vội vàng chạy ra
Dắt tay vội rước vào nhà
Mái sau, viên ngoại ông bà ra ngay