Thứ năm, 15/5/2003, 08:51 GMT+7
Bản du ca cuối cùng... (phần 7)
Erich Maria Remarque
Kern ngồi trên bờ tường của một nghĩa trang Do Thái, đếm tiền. Suốt buổi sáng anh đã đi bán dạo ở Heiligenkreuzberg. Đây là một khu phố nghèo nàn, nhưng Kern biết rằng sự nghèo khổ dễ đưa tới cảm thông và độ lượng. Anh đã kiếm được ba mươi tám “cuaron”.
Anh cho tiền vào túi và cố đọc thử tên của người chết trên mộ bia tróc lở. Anh nói một mình:
- Rubbi Israel Love, ông là một học giả uyên thâm, ông đã đi vào cõi thời gian vô tận, thân xác của ông chì là một đống xương đang mục rữa trong lòng đất nhưng chắc chắn ông vẫn có một linh hồn. Vậy hãy cho tôi biết tôi cần phải làm gì? Trở về phòng ngay hay tiếp tục đi bán để có được năm chục “cuaron”.
Kern lấy ra một đồng tiền rồi nói tiếp:
- Dầu sao thì người chết cũng linh thiêng. Nếu đồng tiền úp sấp thì tôi đi bán nữa, nếu ngửa thì tôi sẽ về phòng.
Kern ném đồng tiền lên cao, toan bắt lấy nhưng chụp hụt. Đồng tiền rớt trên lưng ngôi mộ. Kern reo lên:
- Sấp! Thế là chính ông khuyên tôi đi bán nữa, ông Rabbi!
Và Kern hăm hở đi về phía một tòa nhà gần đó. Anh dừng lại một lúc ở cầu thang. Chẳng thấy ai, anh lẳng lặng lên tầng trên. Một người đàn bà đi ngang qua, nhìn thấy chiếc cặp da đựng các món bán rong của Kern, vội vàng quay trở lại phòng, khép cửa thật mau.
Kern gõ cửa một căn phòng khác. Một người đàn ông mặc áo không gài nút ngực ló đầu ra. Kern chưa nói hết câu thì ông ta gắt lên:
- Bán dầu thơm? Mỹ phẩm? Cậu có biết đọc không? Biết hả? Vậy mà còn dám rao hàng trước một đại diện thương mãi cho hãng Andrea. Thôi, đi chỗ khác mau.
Cánh cửa đóng sầm lại. Kern đánh diêm quẹt lên và soi vào tấm bảng đồng gắn ở cửa. Vậy là đúng quá rồi. Người chủ căn phòng nầy là Joseph Schimek, chuyên bán sỉ nước hoa và xà bông thơm.
Kern lắc đầu lẩm bẩm:
- Thế này là sao đây, ông Rabbi? Đã có sự hiểu lầm giữa kẻ chết và người sống hay sao?
Kern nhận chuông phòng thứ ba. một người đàn bà to lớn. Có vẻ phúc hậu ra mở cửa. Vừa thấy Kern, bà ta vồn vã ngay.
- Mời cậu vào. Chắc cậu là người Đức? Dân tị nạn hả? Vào đi, mời cậu.
Kern theo bà ta vào trong nhà bếp.
- Ngồi xuống đó đi, chắc cậu mệt lắm?
- Dạ cũng không mệt bao nhiêu.
Kern vừa nói vừa khoan khoái ngồi lên một chiếc ghế. Đây là lần đầu tiên ở Prague, anh được mời ngồi. Anh chợt nhớ tới chết tên Rabbi.
- Xin lỗi ông, tôi hãy còn quá trẻ, ông Rabbi… Xin lỗi…
Kern bày mấy chai nước hoa và mấy bánh xà bông thơm lên mặt bàn. Người đàn bà đứng khoanh tay, lẳng lặng nhìn. Chờ Kern chất hết các món trong cặp ra, bà ta chỉ một cái lọ con:
- Phải dầu thơm không?
- Dạ phải.
Kern trông đợi người đàn bà chú ý tới xà bông thơm hơn là nước hoa. Tuy thế, anh vẫn không mấy ngạc nhiên, lại còn hãnh diện giới thiệu:
- Dạ, đây là hiệu nước hoa danh tiếng hiệu Farr của xưởng chế tạo Kern. Các loại nước hoa khác, chẳng hạn như của xưởng Andrea mà ông Schimek ở đây làm đại diện, không thể so sánh được.
- Ủa, thật vậy sao?
Kern mở nút chai, đưa cho người đàn bà ngửi. Anh phết một chút nước hoa lên lưng bàn tay sần sùi của bà ta.
- Bà cứ thử thì biết.
Người đàn bà đưa lên mũi, cười hềnh hệch:
- Thơm lắm. Nhưng cậu chỉ có chai nhỏ cỡ nầy thôi sao?
- Còn một chai lớn đây. Nhưng phải tới bốn chục cua-ron.
- Không sao. Tôi thích chai lớn. Cho tôi chai đó đi.
Kern không tin ở tai mình. Nếu bà ta chịu mua với giá đó thì anh lời trọn mười tám cua-ron. Anh vui vẻ nói mau:
- Nếu bà lấy chai lớn, tôi sẽ tặng bà một cục xà bông hạnh đào.
- Vậy hả? Tốt lắm, tôi cũng thích xà bông thơm.
Người đàn bà mang chai nước hoa và cục xà bông vào buồng bên cạnh. Kern cho đồ đạc vào cặp. Mùi thịt bầm thơm phứt và béo ngọt từ đâu đó xông ra. Kern quyết định đêm nay sẽ ra quán ăn một bữa thật ngon. Món súp ở trại tạm cư đã làm anh chán ngấy.
Người đàn bà trở lại, nói với Kern:
- Cảm ơn cậu nhiều lắm. Xin biếu cậu một ổ bánh mì thịt nguội để ăn đi đường.
Kern đứng lên:
- Cám ơn bà.
- Có gì đâu. À, cậu còn cần gì nữa?
- Bà quên cho tiền…
Mặt người đàn bà nhăn lại:
- Tiền, tiền gì?
- Dạ, tiền chai dầu thơm.
Mụ to béo vụt quay nhìn sang buồng bên, tru tréo:
- Anton! Ra đây coi nè! Có cậu bé nầy định vòi tiền đây!
Một gã đàn ông mình trần từ buồng bên cạnh bước ra. Hắn đang nhai ngồm ngoàm và dùng lưng bàn tay chùi miệng. Hắn nhìn lườm lườm vào mặt Kern và hỏi giọng khàn khàn:
- Tiền hả? Tiền cái gì?
- Tiền mua chai nước hoa. Nếu cho là đắt thì trả lại. Tôi tặng luôn cục xà bông.
Người đàn ông lừ lừ bước tới:
- Nè, biết tao là ai không? Lại đây coi, bé con – mở toang ra và chỉ vào một bộ đồng phục máng trên lưng ghế:
- Biết cái gì đó không? Hay là đợi tao tiễn chân tới bót.
Kern lùi lại. Anh nghĩ ngay tới mười lăm ngày tù về tội hành nghề thương mãi bất hợp pháp. Tuy nhiên, anh cố trấn tĩnh:
- Tôi có giấy lưu trú đàng hoàng…
Nhưng gã bất lương cũng không vừa:
- Có giấy lưu trú? Mặc! Có giấy hành nghề không? Đưa đây coi.
- Tôi để ở khách sạn.
- Được. Vậy đi với tao về khách sạn… hay là để chai dầu thơm lại đây…
Kern đã bước lui tới cửa:
- Thôi, cứ để đó.
Mụ to béo cười teo toét:
- Cậu lấy khúc bánh mì theo chớ.
Kern mở cửa:
- Cám ơn, bà cứ giữ mà dùng.
Kern xô ập cánh cửa rồi phóng vọt xuống thang lầu. Một tràng cười nhạo báng đuổi theo anh và tiếng nói như bò rống của mụ to béo:
- Nó chạy cũng mau như thằng cha Do Thái hồi chiều.
Kern chạy thẳng ra ngoài trong khi mụ to béo ôm bụng cười:
- Nó tưởng anh là Cảnh sát…
Gã bất lương xỉa răng bằng móng tay:
- Bọn nó hễ thấy đồng phục là chạy trối chết, dầu chỉ là đồng phục của người phát thơ. Có đám tị nạn đó, mình cũng đỡ…
Hắn vừa nói vừa chụp vào bộ ngực đồ sộ của mụ vợ.
Kern đi như người mất hồn về phía nghĩa trang. Anh đứng lại, nhìn ngôi mộ lúc nãy và lẩm bẩm:
- Rabbi ơi, ông hại tôi rồi. Thế là mất toi bốn chục cua-ron với cục xà bông. Chúng nó nuốt sống hai mươi bốn cua-ron vốn rồi, Rabbi ơi.
Kern trở về lữ quán. Anh hỏi gã gác cửa:
- Có ai hỏi tôi không?
- Chẳng có ma nào cả.
- Chắc không?
- Cả ông Tổng thống cũng không tới.
Kern không trả lời. Anh đi thẳng lên lầu hơi lấy làm lạ là chẳng được một tin tức nào của cha mình. Có thể ông không còn ở căn nhà đó mà cũng có thể là ông đã bị bắt rồi.
Kern quyết định chờ thêm vài ngày nữa rồi tới bà Ekowski.
Vừa bước vào phòng anh gặp ngay người đàn ông đã mớ to đêm qua. Ông ta tên Rabe, đang sửa soạn thay đồ ngủ. Kern hỏi:
- Chưa chín giờ mà ông định ngủ à?
Rabbe gật đầu:
- Ngủ sớm để tới khuya thức dậy luôn. Đó là giờ mà tôi thường gặp ác mộng. Ở tù cứ nửa đêm là thức rồi ngồi luôn hai ba tiếng đồng hồ. Bây giờ phải tập dậy nửa đêm, ngồi một lúc rồi uống thuốc an thần. Có vậy mới không nằm mơ.
Ông ta để ly nước bên cạnh giường rồi nói tiếp:
- Cậu có biết lúc thức dậy, tôi tự trấn an bằng cách gì không? Tôi đọc nhẩm lại những bài học thuộc lòng lúc nhỏ.
Kern ngạc nhiên:
- Bài học thuộc lòng?
- Đúng vậy. Chẳng hạn như bài hát ru nầy:
Đêm đêm lên giường ngủ,
Thấy Cha tôi trên trời,
Aùnh mắt ngời thánh thiện,
Soi sáng tâm linh tôi.
Lạy Cha con đắc tội,
Phước Cha tựa biển trời,
Máu Jesus Christ đổ,
Tin lành đến muôn nơi…
Như một bóng ma hiền dịu, ông ta đứng bất động giữa phòng khẽ ngâm lại những câu thơ tiểu học. Bên ngoài là bóng đêm thầm lặng đóng khung trong vuông cửa sổ. Ông ta cười thiểu não:
- Những bài hát ru loại đó làm tôi thấy yên tâm. Chẳng biết tại sao…
Kern nheo mắt lại, giọng anh cũng trở nên ảm đạm:
- Có những điều mình không bao giờ biết.
- Kể ra cũng lạ. Cứ mỗi lần ngâm nga như thế là tôi thấy như đã tìm được một nơi trú ẩn an toàn.
Kern bắt đầu cảm thấy khó chịu. Anh có cảm giác đang sởn da gà:
- Tôi thì quên mất cả. Tôi có cảm tưởng như đã bỏ trường cả thế kỷ.
- Tôi cũng có nhớ gì đâu. Nhưng rồi thình lình những bài học thuộc lòng kiểu đó hiện tới, không mất một câu, một chữ.
Kern gật đầu và đứng lên. Anh muốn ra ngoài để Rabe ngủ và để khỏi bận tâm về ông ta.
- Bây giờ, lúc rảnh rỗi tôi cũng chẳng biết phải làm gì. Đó là thời gian nặng nề nhứt trong ngày. Lâu lắm, tôi chẳng hề đọc sách. Còn ngồi lại để nhắc nhớ những ngày vui sống ở quê nhà thà chết còn hơn.
Rabe ngồi xuống giường:
- Hay là cậu đi xi-nê. Xem xong rồi là chẳng còn nhớ gì nữa cả nhưng dầu sao vẫn còn hơn để đầu óc trống rỗng.
- Xem xi-nê?
Kern vừa hỏi vừa nghĩ tới chuyện mời thiếu nữ phòng bên cạnh cùng đi.
- Ông biết hết những người trong lữ quán nầy chớ?
Rube tháo vớ ra và cử động mấy ngón chân:
- Biết một vài người. Chi vậy?
Ông ta nhìn những ngón chân như chưa bao giờ thấy chúng. Kern trả lời bằng một câu hỏi:
- Ông có biết mấy người ở phòng bên không?
Rabe nhíu mày suy nghĩ:
- Có biết bà Schimanowska. Một nữ tài tử tiền chiến.
- Tôi muốn hỏi người kia…
Người mang kính từ nãy giờ vẫn im lậng bỗng lên tiếng:
- Cậu muốn nói cô Ruth Holland chớ gì. Có đúng thế không, Don Fuan?
Kern đỏ mặt. Người mang kính tên Marill, một cựu dân biểu ở Reistag, tiếp tục chọc phá:
- Kể cũng lạ, người đời thường hay đỏ mặt khi đề cập tới những chuyện rất tự nhiên. Trái lại, rất ít người chịu nhíu mày lúc tưởng tượng tới những điều bỉ ổi. Sao, hôm nay làm ăn thế nào?
- Đại họa. Mất luôn cả vốn.
- Đã lỡ mất thì cho mất luôn một ít nữa cũng chẳng sao. Đó là phương cách tốt nhất để khỏi bị mặc cảm.
Kern nói mau:
- Tôi cũng đang tính như thế. Định đi xi nê.
- Hoan hô. Chắc với cô Ruth Holland?
Kern ngập ngừng:
- Chắc là … mà không biết… tôi chưa quen…
- Làm thế nào quen nhau được khi vẫn chưa chịu làm quen? Mạnh dạn lên! Sự can đảm là viên ngọc quí nhứt của tuổi trẻ.
- Theo ông, thì cô ấy có bằng lòng không?
- Phải bằng lòng chớ. Sống dai dẳng trong sợ sệt và lo âu, người nào mà không thèm đôi phút giải trí. Tiến tới đi.
Rabe nói chen vào:
- Nên xem ở rạp Rialto. Phim Maroc. Cảnh nước ngoài càng thơ mộng, mình càng dễ quên lãng.
Marill tán đồng:
- Xứ Maroc. Nên lắm, nhứt là với các thiếu nữ.
Rabe cuộn tròn vào chăn:
- Lắm lúc, tôi ước mong được ngủ luôn một giấc mười năm.
Marill hỏi:
- Người bạn có ước ao gia thêm mười tuổi nữa không?
Rabe nhìn ông ta:
- Không. Nếu vậy thì con cái tôi đã lớn cả rồi.
Kern gõ cửa phòng người bên cạnh. Có tiếng người bên trong trả lời. Kern xô cửa và dừng sững lại ngay. Đối diện Kern là nữ tài tử lão thành Schimanowska, mặt như chim cú. Những nếp nhăn được trát phấn quá dầy trông như một vùng núi non lởm chởm đang bị tuyết phủ. Hai mắt đen, sâu hoắm chiếu thẳng vào mặt Kern như sắp vồ mồi, Kern có cảm tưởng bà ta sắp nhảy bổ tới. Nhưng cô đào già bỗng nhăn cười và gượng hỏi với giọng đặc sệt sân khấu:
- Người bạn trẻ muốn tìm ai?
- Tôi muốn nói chuyện với cô Ruth Holland.
Nụ cười biến mất, tiếp theo là giọng hầm hừ:
- À… à
Kern không buồn để ý. Anh nhìn vào trong. Ruth Holland đang ngồi đọc sách trên giường. Kern nhận ra đó là chiếc giường mà đêm qua anh đã tới lầm. Máu như dồn cả lên mặt anh.
- Tôi xin phép được nói chuyện với cô.
Ruth đứng lên, theo Kern ra hành lang. Phía sau họ là hơi thở ồ ồ của bà Schimanowska.
Kern bỗng thấy mình nói dối gọn lỏn:
- Tôi có hai vé hát, định mời cô…
Nhưng thấy Ruth nhìn sừng sững mình, Kern hơi hoảng:
- Hay là cô đã có thú tiêu khiển khác?
Ruth lắc đầu:
- Không, tôi chẳng có dự định nào cả.
Kern hớn hở:
- Vậy thì xin mời cô cùng đi với tôi. Chẳng lẽ cô cứ ở mãi trong phòng…
- Tôi đã quen như vậy rồi.
- Tôi thì không thể nào chịu được. Cứ ngồi như thế chừng hai mươi phút là tôi muốn điên lên, nhứt là cùng ở chung với bà ấy.
Cô gái cười:
- Coi vậy mà bà ta cũng tốt bụng.
Kern cũng cười:
- Có thể. Nhưng mặt bà ta khó đăm đăm, cứ thấy là ớn lạnh. Phim sẽ chiếu trong mười lăm phút nữa, cô đi chớ?
Ruth nhìn xa:
- Vâng nếu anh có sẵn vé.
Tới rạp Kern hối hả mua hai vé. Lúc nãy anh sợ Ruth nói dối nhưng bây giờ sự lo nghĩ đó không còn làm anh bận tâm. Chỉ cần có người đẹp bên mình là đủ.
Họ vào rạp lúc phim đang chiếu cảnh Marra-rakech. Một vùng đất huy hoàng, hùng vĩ hiện trên màn bạc. Mặt trời chói sáng, một khoảng sa mạc rạng ngời, và tiếng sáo kỳ diệu, tiếng trống rập rình của đêm huyền ảo Phi châu.
Ruth thu gọn người trong lòng ghế. Chuỗi âm thanh huyền hoặc, ấm áp như một cơn mưa rào mùa Xuân… từ đó kỷ niệm hiện ra…
Còn tiếp