Cô gái nhìn lại bến đò Sem, nơi chiếc thuyền vừa đưa cô đến đây đang chậm chạp bơi ngược dòng. Sông Côn ngầu đục bởi những cơn mưa đầu mùa. Đây là lần thứ hai cô đặt chân lên bến Sem, một bến đò nằm ở thượng nguồn sông Côn, con sông rộng mênh mông ngày xưa từng in bóng những chiến thuyền của đại quân Tây Sơn.
Chuyến đi lần trước không mấy vui, cô không gặp được người yêu của cô đang trú quân trong ngôi đình gần bến Sem. Lòng hồi hộp cô gái rời bến đò. Một cơn gió cuốn vòm lá cây si cổ thụ trên đỉnh dốc làm hàng nghìn chiếc lá reo lên, lấp lánh sáng. Hình ảnh của người yêu chợt hiện đến làm cô mỉm cười. Đấy là một chàng trai cương nghị cao dong dỏng, mũi cao, mắt sáng, tóc rễ tre xoăn từng lọn. Làn da ngăm ngăm nắng gió càng làm anh rắn rỏi. Ngày nhập ngũ anh đã lên đường quá đột ngột chẳng kịp nói với nhau một lời. Nhưng cô vẫn tin có ngày anh trở về và hai người sẽ nên vợ nên chồng
Chẳng mấy chốc ngôi đình Vĩnh An Nội đồ sộ, cổ kính hiện ra trước mặt. Cô rẽ vào đình, nơi đơn vị đặt trạm đón tiếp. Cho đến lúc này cô vẫn không hay biết người yêu của cô ngay sau khi nhập ngũ được phiên chế về đơn vị Cảm tử quân, và mới đây anh đã xung phong nhận lãnh một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Nếu anh hoàn thành cũng có nghĩa anh không còn trên cõi đời.
Lát sau, người lính trực ban trở lại báo cho cô biết Ngô Mây đã đi công tác xa, không gặp cô được.
Thực ra Ngô Mây không hề đi công tác xa. Anh vẫn ở tại đơn vị, nhưng quyết định không ra gặp người yêu. Cầm trên tay quà của người yêu gửi lại, tim anh rộn lên không kìm được. Anh tự nhủ: “Có lẽ cô ấy đã trở lại bến đò Sem để xuôi về Phù Cát. Hãy quên anh đi! Cầu mong cho em được hạnh phúc”. Hình bóng của người yêu kéo anh về với đời sống. Anh bỗng nhớ da diết vùng quê nghèo Triêm Ân nơi những đồng lác bạt ngàn trải màu xanh cho đến ngõ nhà anh. Lần đầu tiên anh biết đến tình yêu trong bóng rợp của vô vàn những cây lác. Mùa nước lũ ngôi nhà anh như hòn đảo giữa biển nước mênh mông. Gốc rạ, gốc lác dìm sâu dưới làn nước bạc. Nước ngập gốc cây bồ đề trước ngõ, tràn vào cả sân nhà. Cha đã quá vãng, các anh các chị đều ra ở riêng, mẹ và cậu em trai anh sẽ phải chèo chống việc nhà nếu vắng anh. Ngày nhập ngũ anh lên đường quá vội vàng. Thực tế, ban đầu đơn vị không chấp nhận anh, có lẽ vì dáng vẻ thư sinh không phù hợp với nhiệm vụ của một cảm tử quân. Những bữa cơm đầu tiên trong quân ngũ anh luôn trở thành người thứ mười một trong mâm cơm mười người dọn cho các chiến sĩ. Quyết tâm của anh đã làm chỉ huy đơn vị thay đổi ý kiến. Ngày biết mình chính thức trở thành một cảm tử quân anh vừa mừng vừa thương mẹ vô cùng. Thân làm trai anh chưa báo đáp được gì cho mẹ. Anh thầm mong mẹ sẽ hiểu và hãnh diện vì đã có đứa con chọn cái chết oanh liệt ở sa trường để đền nợ nước. Bàn tay anh chạm vào vỏ quả bom lạnh ngắt. Đấy là quả bom hăm lăm ký láng bóng màu mồ hôi. Anh xoay người dùng răng bật mạnh chốt an toàn của quả bom. Chiếc chốt kim loại tuột ra khỏi quả bom cùng với cảm giác ê ẩm hai hàm răng. Đây là động tác anh đã tập mấy ngày liền cho thật thuần thục sau khi dùng tay rồi dùng chân tháo chốt an toàn của quả bom. Dùng răng mở chốt an toàn của quả bom là phương án thứ ba nếu cả tay lẫn chân đều bị thương. Quân Pháp sẽ kinh hoàng biết chừng nào khi xe tăng của chúng bị các cảm tử quân ôm bom tấn công. Đấy cũng là thứ vũ khí khủng khiếp nhất mà quân đội cách mạng có được trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Hôm đơn vị nêu phương án ôm bom tấn công xe tăng giặc, cả đại đội đều giơ tay xung phong. Khi đại đội trưởng Quách Tử Hấp ra dấu hiệu mọi người bỏ tay xuống, Ngô Mây vẫn tiếp tục giơ tay. Sau cuộc họp anh xin trực tiếp gặp chỉ huy đơn vị để một lần nữa bày tỏ nguyện vọng. Quyết tâm của anh cuối cùng được chỉ huy đơn vị chấp thuận. Từ ngày đó quả bom đối với anh là tất cả. Nó còn quý hơn cả sinh mạng của anh. Những đám ruộng lởm chởm gốc rạ trước đình Vĩnh An Nội từng thấm mồ hôi của anh khi anh tập ôm bom lăn qua ruộng. Anh cũng đã từng bao lần ôm bom vượt qua những gò mả đầy gai sắc. Quần áo anh bị rách xước nhiều chỗ. Mụt “chùm bao” ở bắp chân bị nhiễm trùng tấy lên nhức buốt, anh phải bịt lại bằng chiếc nắp hộp thuốc phiện nhỏ, đục nhiều lỗ ở trên mặt và có quai buộc chặt vào bắp chân.
Vào cuối năm 1947, quân Pháp ở An Khê, căn cứ bàn đạp quan trọng của địch ở Tây Nguyên, liên tiếp mở những cuộc hành quân nống lấn, chuẩn bị chuyển quân vượt đèo An Khê đánh chiếm vùng tự do Bình Định. Đại đội cảm tử quân của Ngô Mây được lệnh chặn đánh cánh quân Pháp có xe tăng yểm trợ trên đèo An Khê. Lễ xuất quân được tổ chức tại sân vận động Kiên Mỹ, gần điện thờ vị anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Đơn vị Cảm tử quân đội ngũ chỉnh tề, trang nghiêm đứng trước khán đài. Nhân dân đến tiễn rất đông, cũng được xếp thành hàng ngũ đứng chật chung quanh. Sau lời phát biểu ngắn của vị chỉ huy nêu rõ quyết tâm chiến đấu của đơn vị, Ngô Mây được vinh dự quàng chiếc khăn quàng đỏ tượng trưng cho những người chiến sĩ quyết tử. Anh còn nhận được món quà bất ngờ: đôi dép lốp cao su của các bà má chiến sĩ tặng. Mẹ Ngô Mây vừa từ quê lên được mời lên khán đài phát biểu động viên các chiến sĩ. Bà dặn dò chung anh em trong đơn vị mà Ngô Mây cảm thấy như mẹ đang dặn dò riêng mình. Anh cố nén xúc động đăm đắm nhìn mẹ. Hành trang của anh bây giờ chỉ còn lại bộ quân phục màu ghi đậm đang mặc, quả bom và một chiếc cuốc chim nhỏ đeo sau lưng (dụng cụ đào hố cá nhân và khai hỏa nếu kim hỏa của trái bom bị liệt). Mọi thứ quần áo, đồ dùng cá nhân anh đã trao lại cho đồng đội.
Vậy là giờ đây anh thanh thản vào cuộc quyết tử.
Ngay hôm đó, đơn vị hành quân ngược đường Mười Chín về hướng đèo An Khê.
Hơn mười ngày cánh quân Pháp có xe tăng yểm trợ rập rình ở đầu đèo để nhử quân ta. Đột ngột có tin trinh sát báo bọn địch đổi hướng, bỏ đường Mười Chín chuyển quân theo ngả Suối Vối - Rộc Dừa. Đơn vị Cảm tử quân phải thay đổi phương án tác chiến, hành quân cắt rừng đón đánh địch ở đầu cầu Suối Vối. Chiếc hố chiến đấu của Ngô Mây được đào giữa bụi dứa dại gần đầu cầu. Ngô Mây trao lại đôi dép lốp cao su cho người trung đội trưởng rồi ngồi vào vị trí của mình. Từ nơi ẩn nấp anh có thể ôm bom lao ra đầu cầu, với sức công phá của quả bom hăm lăm ký nếu xe tăng giặc không bốc cháy thì cũng bị hất xuống vực.
Nhưng một lần nữa quân địch lại làm đảo lộn tình thế. Hai chiếc xe tăng dẫn đầu tiểu đoàn quân Pháp đến cách Suối Vối ba trăm thước thì dừng lại. Khi biết cầu hỏng chúng nghi ngờ chia thành hai cánh khép gọng kìm, vừa tiến quân vừa nhả đạn ác liệt. Đơn vị rơi vào vòng vây của quân Pháp, có nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn. Đại đội trưởng Quách Tử Hấp quyết định mở đường máu. Ngô Mây nhận được lệnh, anh lưỡng lự một thoáng: “Nếu trong khi vượt vòng vây bị tử thương thì công lao luyện tập bấy lâu nay và trái bom mà anh em công binh mất bao công sức mới có được sẽ trở thành vô dụng”. Anh quyết định ở lại chờ thời cơ diệt địch. Dưới làn đạn của giặc các chiến sĩ cảm tử quân lần lượt ngã xuống. Cuộc chiến đấu bị động và không cân sức làm cho đơn vị Cảm tử quân tổn thất nặng. Gần hai mươi chiến sĩ hy sinh.
Tiếng súng trên trận địa đã im bặt. Quân Pháp tưởng đã nắm chắc phần thắng rầm rộ tiến về phía cầu Suối Vối. Đắc thắng, vừa tiến chúng vừa hô: “Việt Minh đâu! Việt Minh đâu!”. Nhiều tên tiến gần bụi dứa dại. Ngô Mây tim đập mạnh, ngón tay đặt vào chốt an toàn của quả bom. “Thời cơ diệt địch là đây, không chờ thêm được nữa!”, anh tự nhủ. Với chiếc khăn quàng đỏ của người chiến sĩ cảm tử quân trên cổ, Ngô Mây bất ngờ đứng bật dậy hô lớn: “Việt Minh đây!”. Toàn thân anh căng lên cùng với chiếc chốt an toàn bật ra khỏi trái bom. Trong chớp nhoáng rừng núi rung chuyển bởi tiếng nổ xé trời. Bọn giặc rú lên. Hơn một trung đội lính Âu Phi đền tội, thây ngổn ngang. Số địch còn lại kinh hoàng bỏ xác đồng đội tháo chạy về An Khê.
Trinh sát của đơn vị khi trở lại trận địa đã không tìm thấy thi thể của Ngô Mây. Mãi sau họ mãi nhận ra một chiếc chân vương bên bờ suối. Trên bắp chân còn buộc chiếc nắp hộp thuốc. Các trinh sát nghẹn ngào đứng lặng hồi lâu, rồi cẩn thận bọc phần thi thể của người đồng đội quả cảm mai táng bên cầu Suối Vối.
Trận quyết tử diễn ra ngày 12 tháng 11 năm 1947, Ngô Mây vừa tròn hăm lăm tuổi đời và bảy tháng tuổi quân.