- Trong binh pháp có dạy phép lui binh và tiến binh rất kì ảo. Giữ kín không cho địch biết mình tiến đánh ắt địch không kịp đề phòng để đề kháng. Khi lui binh không cho địch biết thì địch không truy kích được, tránh khỏi tổn hại. Thói thường, cứ thắng trận thì tiến thêm lên, hoặc ít ra cũng chẳng lùi. Ai thua trận ắt lui binh. Đó là điều mọi người thường biết. Nhưng khi thắng một trận lại rút lui ngay... thạt là kì ảo, khó mà hiểu nổi. Chúng ta thán phục tài dụng binh của Võ hương Hầu vô cùng. Trong ba nước: Ngô, Thục, Nguỵ, chí có Ngô là xưng đế sau cùng. Đó chẳng qua vì tình thế mà Đông Ngô phải chịu sự chậm trễ như vậy.
Khi Tào Tháo còn sống, Tôn Quyền sợ Tào Tháo mượn danh thiên tử nhà
Hán để đánh Ngô nên chẳng dám xưng đế. Lúc tào Phi xưng đế rồi, theo lẽ,
Tôn Quyền cũng có thể xưng đế, song vì sợ Thục. Thục vừa đánh mình đó, nếu
xưng đế, Thục càng căm tức và có thể đem binh tiến đánh lần nữa. Nếu Thục
đánh Ngô thì Ngô chỉ còn cách cầu viện ở Nguỵ, mà còn ra mặt chống đối
Nguỵ nữa. Cho nên tôn QUyền chờ lúc Nguỵ, Thục căm hờn nhau, đánh nhau và
kết liên được Thục mới lên ngôi thiên tử. Tôn Quyền chẳng không ngoan lắm
sao?
- Nguỵ tiếm đế hiệu, Ngô cũng bắt chước tiếm đế hiệu. Như vậy Nguỵ, Ngô đều là giặc đối với nhà Hán. Thế mà Khổng Minh chỉ đánh Nguỵ không phạt Ngô, mà còn sai sứ sang mừng nữa! Té ra Khổng Minh đầu giặc sao? Một cách đơn giản hơn, ta có thể nói là Phục Hậu, Hiến Đế bị giết chẳng phải lỗi ở Ngô mà là do Nguỵ. Vì vậy mà Khổng Minh đánh Nguỵ trước, còn Ngô thì chậm rãi chẳng muộn gì. Khổng Minh hoà với Ngô là để cùng đánh Nguỵ. Sau khi diệt Nguỵ xong sẽ đánh Ngô.