- Mã Siêu là một trong năm vị hổ tướng của nớc Thục sau này. Hồi này tuy Mã Siêu chưa vào Thục, nhưng đã được tác giả diễn tả tài năng của Mã Siêu rất tỉ mỉ. Trước khi tả cái sức mạnh kinh thiên của Hứa Chử, sau này tác giả đem Hứa Chử đối với Mã Siêu để làm nổi bật sức mạnh của Mã Siêu vậy. Tuy nhiên, Mã Siêu, Hứa Chử chỉ có sức khoẻ mà thôi. Mã Đằng dấn thân vào hang cọp phài thiệt thân, trung nghĩa có thừa nhưng mưu lược còn kém. Mã Siêu chỉ biết cậy oai cọp của mình, cũng là hạng có sức khoẻ mà thiếu mưu.
- Phép dùng binh khéo ở chỗ li gián. Thắng một người thì khó mà thắng hai người thì dễ, chỉ vì nhiều người chừng nào thì nghi kị nhau chừng ấy. Để hai người một chỗ thì khó phá, phân hai người ra mỗi người một nẻo thì dễ phá hơn. Mã, Hàn còn đống một chỗ thì không thể li gián, Mã Hàn chia ra hai nơi thì Tháo li gián được.
Tuy nhiên, nếu Tháo chỉ việc dùng nói bâng quơ trên ngựa thì cũng chưa
đạt được mục đích, chính bức thư xoá bỏ nhiều đoạn mới là cái cốt yếu,
tăng ý nghĩa câu chuyên đầu ngựa.
Trước khi chém sứ của Tháo, Hàn Toại đã cho Mã Siêu xem một lá thư. Có
lá thư hồi ấy thì lá thư hồi này mới đáng nghi.
Khi cắt đất giải hoà, Hàn Toại cũng viết một bức thư, có thư di thư lại
càng tăng vẻ nghi kị của Mã Siêu hơn.
Tháo sở dĩ làm cho Mã Siêu nghi Hàn Toại được là vì Tháo thông hiểu phép
phản gián trong binh pháp vậy.
- Chu Du lừa Tưởng Cán khéo ở lúc đêm tối, Tào Tháo li gián Hàn Toại lại khéo ở lúc ban ngày. Lá thư Tưởng Cán khéo ở chỗ rõ ràng minh bạch. Lá thư Hàn Toại khéo ở chỗ bôi xoá, vu vơ. Những tiếng thầm thì trong trướng của Chu Du có vẻ tối quan hệ và khẩn cấp, còn những lời Tào Tháo nói với Hàn Toại trên yên ngựa toàn là vu vơ không có ý nghĩa gì. Phép lừa dối hai bên đều kì diệu, nhưng mỗi bên có một tính chất khác nhau.
- Trong thiên hạ làm gì có chuyện hai bên dàn quân đấu chiến mà gặp nhau không nói đến chuyện binh cơ? Trong thiên hạ cũng không bao giờ có chuyện sai sứ đem thư lại gửi đi bản thảo. Rõ ràng là mưu li gián, thế mà Hàn Toại vẫn không biết, lại trả lời với Mã Siêu một cách vu vơ như thế thì bảo Mã Siêu không nghi làm sao được? Việc li gián tuy do Tháo gây nên, nhưng một phần do Hàn Toại u tối, nên mới hại đến Mã Siêu.
- Mã Siêu chặt tay Hàn Toại cũng như tự chặt mất một cánh tay của mình.
Mã Siêu đã nghi ngờ Hàn Toại thì Hàn Toại còn cách nào hơn là phải đầu
Tháo. Hai người hợp lực nhau, nếu đã lìa nhau thì Tào Tháo thủ thắng là
việc dĩ nhiên.
- Việc binh của Tôn Quyền do đại đô đốc quyết đoán, việc binh của Lưu Bị do quân sư quyết đoán, chỉ có Tào Tháo là tự mình cáng đáng việc binh cơ, tuy có mưu sĩ giúp sức, nhưng quyết định cuối cùng vẫn do Tháo. Tháo tỏ ra xuất sắc hơn bề tôi, thế thì Tôn Quyền và Lưu Bị không thể bì với Tháo nổi.
- Mỗi khi Tháo dự tính một âm mưu gì, các tướng đều không hiểu ra sao cả, cho đến lúc xong việc, Tháo mới đem giải thích cho các tướng hiểu, và ai cũng khâm phục. Vì vậy vua Đường có đề trên mộ Tháo một câu: "Nhất tướng chi trí hữu dư. Lương nhiên! Lương nhiên!" Thật cũng phải lắm.
- Cuốn Mạnh Đức tân thư không được truyền lại đời sau, có người thấy thế tiếc chăng? Nếu tiếc tức là không hiểu cái lẽ "Binh bất tại thư" (việc dùng binh không căn cứ ở sách vở).
Dù sách có truyền lại, nhưng cái ý trong sách ai mà truyền được. Nếu xem
sách mà biết chế biến thì sách cũ cũng thành mới, còn nếu cứ khư khư theo
sách, không biết áp dụng tuỳ thời thì sách mới cũng thành cũ. Hiểu được
cái mầu nhiệm trong sách thì không dùng sách cũng giỏi, không hiểu được
mầu nhiệm trong sách thì dùng sách có ích gì? Cho nên người giỏi dùng binh
không căn cứ vào những nguyên tắc cố định của sách vở. Tào Tháo làm sách,
Khổng Minh không làm sách, thế mà Khổng Minh dùng binh có thua Táo Tháo
đâu?
- Trương Tùng ngấm ngầm đem cả Tây Xuyên dâng cho Tào Tháo thế mà Tháo không nhận nổi. Huyền Đức vì khiêm tốn mà được. Trước kia Hứa Du cũng ăn nói ngạo nghễ với Tháo, mà Tháo nhịn được, chỉ vì lúc ấy Tháo chưa phá được Viên Thiệu, nên Tháo phải ép mình nhẫn nhục. Trương Tùng cũng ăn nói ngạo nghễ với Tháo, nhưng Tháo nổi giận, vì lúc này Tháo đã phá được Mã Siêu , uy thế đang lên. Con gười lúc tự mãn tâm ý khác hẳn lúc còn lận đận.
- Văn hay ẩn hiện một cách phi thường. Như việc Trương Tùng bước chân đến Kinh Châu, độc giả chỉ thấy Triệu Vân, Quan Công, Huyền Đức đón tiếp Trương Tùng, tác giả không nói đến Khổng Minh, nhưng độc giả ai cũng hiểu mọi kế hoạch đều do Khổng Minh bố Trí cả. Văn tự như thế mới thuần diệu.
- Khổng Minh trong lòng rất thèm muốn Tây Xuyên, nhưng lúc Trương Tùng đem Tây Xuyên đến bán, lại xui Huyền Đức giả cách không thiết. Ba ngày tiệc tùng không nói gì đến việc Tây Xuyên cả. Cho đến lúc tiễn biệt, Trương Tùng không chịu nổi phải thổ lộ tâm tư. Khổng Minh chẳng khác nào mậu dịch giỏi đời nay, muốn vậy ấy, nhưng làm ra cách thản nhiên, dợi người mời mọc mới mó đến.
- Cái bức địa dồ Tây Xuyên ngay lúc Khổng Minh ở lều tranh đã vạch ra rồi, sao lại còn cần đến bức địa đồ của Trương tùng? Xin thưa: bức địa đồ của Khổng Minh vạch ra chẳng qua là đại lược, còn bức dịa đồ Trương tùng mời là chi tiết, trong đó chẳng những rành về đường lối mà còn chỉ rõ các chỗ đóng quân, chứa lương nữa. Nếu không có bản đồ ấy không thể vào một nơi hiểm trở như Tây Thục được.
Vả lại, có bản đồ cũng chưa đủ, muốn vào Tây thục còn phải có người đón
rước, dẫn đường nữa mới được.
Cái mưu đón rước Trương Tùng là do Khổng Minh bàn ra, thế mà mưu kế lấy
Tây Xuyên lại do Bàng thống làm chủ, là ý thế nào?
Đó là Khổng Minh xem việc giữ Kinh Châu là trọng. Kinh Châu hai mặt bị
Tào tháo, Tôn Quyền dòm ngó, nên phải cố thủ kĩ càng, nếu để mất đi thì
Huyền Đức đánh chiếm Tây Xuyên không được sẽ biết về đường nào? Khổng Minh
đã giữ lấy chỗ căn bản để làm bàn đạp tiến vào Tây Xuyên đó.