- Tào Tháo giả bệnh, Cát Bình đem thuốc đến chữa, mà Tháo không chết ấy là Bình không biết Tháo giả. Chu Du mắc bệnh thật, Khổng Minh không chữa bằng thuốc, thế mà Chu Du lại khỏi bệnh, ấy là Khổng Minh biết Chu Du bị bệnh thật.
Cái bệnh của quân Tào Tháo là sợ nước, Bàng Thống đã dùng dây xích sắt
làm thuốc chữa, khoá hết các chiến thuyền thì quân Tháo được lành. Bệnh
sợ nước vừa hết thì bệnh sợ lửa lại phát ra. Bệnh "nước" không nguy bằng
bệnh "lửa".
Cái bệnh của Chu Du là bệnh thích gió, Khổng Minh đã đem thang "thuận
khí" mà chữa thì Chu Du phải lành.
- Chu Du điều binh đánh trận Xích Bích, chưa phát quân đánh Xích Bích đã phát quân đi bắt Khổng Minh. Đánh quân Tào đến tám mươi ba vạn, mà Chu Du chỉ vận dụng có mười hai đội thuỷ lục quân, còn bắt một mình Khổng Minh, Chu Du lại điều động đến hai đạo thuỷ lục quân. Như vậy Chu Du xem việc bắt Khổng Minh còn trọng hơn việc đốt thuyền nơi trận Xích Bích nữa... Ôi, thế mà Khổng Minh vẫn không chết vì tay Chu Du. Người Đời cho Chu Du là cay nghiệt, không hiểu mình hiểu ta, làm cái việc mà sức mình không thể làm nổi, như vậy chẳng phải dại khờ sao?
- Công việc xây cái lò sát sinh khổng lồ ở Xích Bích đã khởi đầu ở hai hồi trước, và do nhiều bàn tay góp vào. Lấy đại giang làm bếp, lấy Xích Bích làm lò. Hoàng Cái làm chàng đốn củi, Hám Trạch làm kẻ gánh than, rồi Bàng Thống lại tưới dầu thêm... Người bên Ngô đã thế bên Tào còn có những kẻ thế là chưa đủ, nên Tưởng Cán còn đi rước thêm than củi của người về nhóm. Sái Trung, Sái Hoà còn đi gánh giùm thêm rơm, bổi khô đem về rắc lên. Thế là Khổng Minh cầm quạt thốc cho một hồi, Chu Du xắn tay áo châm mồi lửa.
Lửa bùng lên, tám mươi ba vạn quân Tào thành những con thịt nướng, bốc
mùi khét lẹt.
- Khổng Minh cầu gió chính là Khổng Minh mượn binh vậy. Cầm kiếm lên đàn ra hiệu lệnh nghiêm túc, chẳng khác một vị nguyên nhung điều binh bố trận. Yên định ngôi vị cho 24 sao và 64 quẻ, cũng như bố trí một trận đánh lớn. Tầng dưới đàn, lấy bốn thanh sắc: xanh, đỏ, trắng, đen chia cho cờ xí bốn phương, trông phảng phất như bốn đạo kì binh bố trí bốn mặt. Tầng giữa đàn lại lấy năm sắc xếp lộn rồi bày ra tám phương, trông như tám lộ kì hình. Tầng trên nhất dùng bốn người chia ra hai cánh tả hữu, cũng phảng phất như hai cánh kì binh nữa. Chỉ dùng một trăm hai mươi người mà khí thế chẳng khác gì muôn người ngàn ngựa, lại coi tám mươi ba vạn địch quân như đống cỏ khô, tiêu diệt chẳng khó khăn gì vậy.
- Tác giả tả Chu Lang dùng binh không tả kĩ khi lâm trận, mà lại tả rất kĩ càng ngay cái lúc chưa đánh nhau.
Bởi vì một trận đánh chiến lược, cái quan trọng là ở lúc dùng binh bố
trận chứ không phải quan trọng ở lúc thắng giặc. Cứ như lối điều khiển của
Chu Lang trước sau thì độc giả đã cảm thông được tài năng của Chu Lang và
cái cớ thắng bại của hai bên rồi, cần gì phải tả lúc chém giết.
Lúc chém giết chỉ nói sơ qua, mà ai cũng thấy được một trận chiến ghê hồn
mới là một lối văn dộc đáo vậy.