- Phàm một công việc gì lớn lao đều cởi mở mối trước. Mở mối có hai cách:
"Thuận và nghịch".
Nếu địch nghi sợ ta thì ta nên thua một trận nhỏ để làm cho địch tự kiêu
mà tiến. Nếu địch đang khinh ta thì ta thắng một trận để địch nhụt chí
hung hăng. Hai kế sách ấy gọi là nghịch kiến và thuận kiến.
Như hồi này, Tào Tháo vừa thu được Kinh Tương, đuổi Huyền Đức, thế binh
như nước vỡ, lại xua quân đến đánh Giang Đông, chẳng khác nào như hổ dữ
toan nuốt chửng đàn dê, làm sao tháo không tự đắc. Trận hỏ mà Chu Du vừa
thắng trên sông Tam Giang chính là cái thế "thuận kiến" để mở mối cho trận
Xích Bích sau này đó.
- Huyền Đức đã phải một lần vượt qua Đàn Khê, thật là nguy hiểm. Đến hồi này, qua Giang Đông khao quân lại gặp nguy hiểm hơn nữa. Không gì nguy hiểm bằng mình không biết cái nguy. ở Tương Dương, Sái Mạo nghe Huyền Đức kéo quân chạy thì vội đuổi theo, đó là mối nguy thấy rõ, còn ở bên sông Giang thì Chu Du tuy thất bại, nhưng sự việc lại không tiết lộ, Chu Du cứ thản nhiên tiễn chân Huyền Đức, sự việc thật là kì.
- Văn tự có lúc dùng "chính thấn", có lúc lại phải dùng "phản thấn".
Chính thấn gợi những tia sáng làm cho nổi sự việc. Phản thấn đem sự tương
phản so sánh, làm cho ý càng nổi bật lên.
Như tả Lỗ Túc thật thà thấy rõ cái tinh xảo của Khổng Minh, đó là lối ":
phản thấn". Tả Chu Du tinh xảo, quỷ quyệt, lời nói trái với ý nghĩ, để
thấy Khổng Minh còn tinh xảo hơn bội phần. Đó là lối "chính thấn". Cũng
như muốn tả một cô gái quốc sắc mà đem một cô gái xấu xí ra so sánh không
bằng đem ngay một cô gái già đét mà đối chiếu, rồi thêm vào đó vài lời làm
cho một cô gái quốc sắc kia phải nổi bật lên.
Nếu tả một hổ tướng mà đem một anh chàng ốm yếu ra phản chiếu thì không
bằng đem một kẻ vũ dũng, lực lưỡng ra so sánh. Như thế viên hổ tướng còn
nổi bật hơn nhiều. Đọc đoạn văn tả Chu Du, Khổng Minh đấu trí cũng thấy
lối văn "tương thấn" là diệu.
Khổng Minh trước khi ra khỏi lều tranh đã nói: "Đông hoà Tôn Quyền, Bắc cự
Tào Tháo". Đó là quốc sách. Cho nên, Khổng Minh lúc nào cũng muốn hoà
hoãn với Tôn Quyền.
Chẳng những thế, mà lúc vào Tây Xuyên, Quan Công muốn chia quan cự Tào
Tháo lẫn Tôn Quyền, Khổng Minh cũng không cho. Về sau, lúc Quan Công mất,
Huyền Đức muốn khởi binh đánh Ngô, Khổng Minh cũng hết sức cản ngăn. Rồi
từ cái ngày Huyền Đức gởi con côi nơi Bạch Đế thành, đến khi Khổng Minh
chết, trọn đời không hề gây ác cảm với Đông Ngô.
Đó không phải Khổng Minh có tình gì với Ngô mà chính là Khổng Minh muốn
dùng Đông Ngô làm ngoại viện để đánh Tào cứu Hán vậy.
Lỗ Túc tuy thật thà, nhưng chính sách lại hợp với Khổng Minh. Lỗ Túc lại
muốn liên kết với Khổng Minh để đánh Tào, Chu Du muốn giết Khổng Minh. Lỗ
Túc muốn được lòng Lưu Bị, Chu Du lại muốn giết Lưu Bị. Xem thế thì Lỗ Túc
thua tài Chu Du, nhưng lại hơn Chu Du về kế sách.
- Trước đây, Huyền Đức nằm trong trại của Thuỷ Kính nghe rõ tiếng nói:
"Nguyên Trực đang đêm đến đây có việc gì...". Lời ấy Huyền Đức nghe rất
rành mạch mà lại không hiểu gì cả. Nay Tưởng Cán nằm trong trại Chu Du nghe
tiếng người vào báo tin, tuy không rõ đầu đuôi, nhưng đã hiểu ngay là
người của Sái Mạo thì còn không nghi sao được.
Lối diễn tả thật diễm ảo! Cùng là hai lối nghe ngóng, nhưng lối nghe không
rõ thì đoán hiểu, còn lối nghe rõ ràng thì lại không biết được.
- Chu Du và Tưởng Cán đều có tâm trạng giống nhau là nghi ngờ. Cán thì giả ngủ để lừa Du, Du thì giả ngủ để lừa Cán. Cái say của du là say tỉnh, cái tỉnh của Cán là tỉnh mê. Du khéo ở chỗ vừa gặp mặt đã chận ngay cổ họng không cho nói một lời du thuyết nào. Trong lúc nằm ngủ lại giả mê, kêu "Tử Dực", chửi mắng giặc Tháo khiến Cán sinh nghi. Thái đọ của Chu Du thật là cẩn trọng. Tưởng Cán cho mình thật là tinh ranh nhưng thực ra chỉ
là một anh chàng si ngốc.
Đoạn văn này tả Chu Du thật khéo lắm vậy.