Tên khoa học là Piper lolot DC, họ hồ tiêu (Piperaceae). Là loại cây thân thảo sống dai, cao 30-40cm, mọc bò. Thân phồng lên các mấu. Lá đơn, mọc so le cuống dài, phiến lá hình tim, mép nguyên uốn lượn, gân lá chằng chịt hình màng lưới dáng như lá trầu không gân, mặt dưới hơi có lông. Cụm hoa mọc ở kẽ lá, quả mọng có một hạt, cây mọc hoang khắp nơi. Nhân dân hái lá làm gia vị nấu với ốc, lươn, quấn thịt bò nướng để có mùi thơm và chống dị ứng. Dùng làm thuốc. Thu hái quanh năm.
Lá lốt được dùng trong y học dân tộc với tên tất bát (tiêu lốt). Có vị cay, tính ấm, vào phế, tỳ vị, làm tan hơi lạnh, giúp tiêu hóa, thông khiếu và trị tê thấp.
- Chữa tê thấp: rễ lốt, dây chìa vôi, cỏ xước, hoàng lực, độc lực (rễ quít rừng), hột xích hoa xà, đơn gối hạc (mỗi vị 12g sắc uống).
- Chữa đau bụng tiêu chảy, buồn nôn, nấc cụt: hái lá lốt rửa sạch, nhai nuốt.
- Chữa đau gấp ngang lưng, sưng đầu gối hoặc bàn chân tê buốt: dùng lá lốt, ngải cứu lượng bằng nhau, giã nát, chế thêm giấm chưng nóng đắp, chườm.
- Chữa viêm xoang chảy nước mũi đặc: dùng lá lốt vò nát nút vào lỗ mũi.