Bệnh viện tỉnh Hưng Yên tăng cường bác sĩ về khám và điều trị cho nhân dân ở các trạm y tế xã. ảnh : Nguyễn Hiệp
Già yếu là lẽ tự nhiên. Nhưng bắt đầu từ tuổi nào thì già yếu? Điều này, cho đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa xác định được thời điểm chính xác. Quá trình sống của con người là quá trình mỗi cá nhân tồn tại tính theo đơn vị thời gian, thường được gọi là tuổi tự nhiên. Căn cứ vào tuổi tự nhiên, người ta chia cuộc sống của con người thành các thời kỳ: dậy thì (trước 20 tuổi), trưởng thành (20-40 tuổi), suy yếu (40-60 tuổi) và tuổi già. Năm 1982, một hội nghị về người cao tuổi của Liên hợp quốc đã đề xuất lấy tuổi 60 là điểm khởi đầu của thời kỳ tuổi già.
Trên thực tế, các nước khác nhau có mốc phân chia tuổi già khác nhau. Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), các nước phát triển phương Tây coi trên 65 tuổi là thời kỳ tuổi già và đó cũng là tuổi nghỉ hưu. Mỹ quy định tuổi già là 70+10 tuổi, trong khi Nhật lại lấy tuổi 75. Trung Quốc quy định cụ thể hơn, lấy mốc từ 60 tuổi và chia thành các thời kỳ: chớm già (55-65 tuổi), thọ cao (65-89 tuổi) và trường thọ (trên 90 tuổi). Như vậy việc dùng giới hạn tuổi tác để xác định thời kỳ tuổi già chỉ có tính tương đối.
Đối với khái niệm về tuổi của con người, các nhà nghiên cứu về lão khoa cũng có những quan niệm khác nhau. Nói chung, người ta chia tuổi của con người thành 3 loại: tuổi tự nhiên (tính theo thời gian sống), tuổi sinh lý (tính theo tình trạng trao đổi chất, khả năng sinh lý) và tuổi tâm lý (tính theo trạng thái tâm lý tinh thần). ở mỗi người đều có sự chênh lệch giữa 3 loại tuổi này, do đó, việc phân biệt và nhận thức một cách chính xác 3 loại tuổi có ý nghĩa quyết định trong thái độ cư xử đúng đắn đối với sự già yếu.
Chúng ta hay nói: "càng già càng dẻo dai", "tinh lực không kém năm nào" (tuổi sinh lý), "người già nhưng tâm hồn không già" (tuổi tâm lý), chính là để nói một cách hình tượng quan hệ giữa sự già yếu và 3 loại tuổi kể trên. Y học cho rằng, so với tuổi tự nhiên, tuổi sinh lý có thể phản ánh đúng hơn thực trạng sức khỏe của con người, do đó, không nên phán định mức độ già yếu của con người nếu chỉ đơn thuần dựa vào tuổi tự nhiên. Ví dụ: một người ở tuổi trung niên nhưng suốt ngày mang vẻ già nua cằn cỗi, không có khí thế đối với công việc và cuộc sống, thì có thể nói, anh ta có tuổi tâm lý của người già thực thụ.
Như vậy, tuổi tâm lý có thể nới rộng trong khoảng cách từ tuổi sinh lý đến tuổi tự nhiên để trì hoãn sự già yếu, đồng thời cũng có thể thu hẹp khoảng cách ấy, thậm chí làm cho tuổi sinh lý đi trước tuổi tự nhiên, tăng nhanh sự già yếu. Như vậy, tuổi tâm lý tương quan chặt chẽ với tuổi sinh lý và ảnh hưởng đến khoảng cách giữa tuổi sinh lý và tuổi tự nhiên. Từ đó cho thấy, mặt dù tuổi tự nhiên có giới hạn nhất định, nhưng vẫn có thể được bù đắp bởi tuổi tâm lý và tuổi sinh lý, hơn thế, nếu bù đắp một cách khoa học, hợp lý thì hoàn toàn có thể trì hoãn sự già yếu và kéo dài tuổi thọ con người.
Quá trình già yếu phản ánh sự suy giảm các chức năng và kết cấu của bộ máy bên trong cơ thể con người. Đó chính là hiện tượng già yếu có tính sinh lý, xuất hiện theo từng thời kỳ, cùng với sự tăng thêm của tuổi tác. Người ta vẫn cho rằng, sự già yếu của con người bắt đầu từ tuổi 40, nhưng thực ra, nó đã bắt đầu ngay sau khi kết thúc tuổi dậy thì được 5-10 năm. Sau 40 tuổi, những dấu hiệu của sự già yếu đã xuất hiện, ví dụ như tóc chuyển sang hoa râm, tính đàn hồi của da giảm, nếp nhăn xuất hiện, da thịt nhão (thường hay biểu hiện nhiều trên khuôn mặt, các chức năng sinh lý và tinh lực cũng suy yếu dần. Sau khi con người bước vào tuổi 60, đặc trưng của sự già yếu dần dần hiện rõ. Tốc độ già yếu ngày càng tăng nhanh, các chức năng của bộ máy cơ thể giảm xuống rõ rệt, thị lực và thính lực giảm, tinh thần cũng không còn được như trước.
Già yếu là một quy luật tự nhiên phổ biến nhưng nó cũng là một quá trình biến đổi dần dần. Vì vậy, ở các cơ thể khác nhau hoặc trong cùng một cơ thể nhưng ở các mô,tế bào khác nhau, tốc độ và mức độ già yếu cũng rất khác nhau. Trong cuộc sống, ta bắt gặp rất nhiều người trông dáng vẻ, tư thế, phong thái, lời ăn tiếng nói... không hề hợp với tuổi thực tế của họ, có người già trước tuổi, có người trẻ hơn tuổi. Do đó, tuổi tác không phải là tiêu chí duy nhất để đánh giá một người có già yếu hay không.
Trên thực tế, hiện nay, khi mà ngày càng có nhiều người sống lâu, thọ cao, sự lão hóa của con người đã sớm bị níu kéo lại. Bởi vậy, các nhà dân số học đã nhiều lần tiến hành phân chia lại các giai đoạn của thời kỳ tuổi già: chớm già (64-74 tuổi), già (75-84 tuổi) và cực già (trên 85 tuổi). Một học giả người Nhật, căn cứ vào tuổi thọ trung bình của nữ giới nước này (trên 81 tuổi), cho rằng 65 tuổi chưa phải đã già và đề xuất tính tuổi già từ 80. Như vậy, chỉ có những người từ 80 tuổi trở lên mới xứng đáng được gọi là người già. Cùng với đời sống vật chất không ngừng được nâng cao, cuộc sống tinh thần không ngừng được cải thiện, cộng với những tiến bộ của y học và dịch vụ chăm sóc sức khỏe, tuổi thọ trung bình của con người cũng không ngừng tăng lên, càng ngày càng có nhiều người tuổi cao nhưng khỏe mạnh, sống lâu, minh mẫn. Tương ứng với điều này, tuổi mốc của sự già yếu cũng không ngừng bị đẩy lùi về phía sau.
Như vậy, chúng ta có thể lý giải về khái niệm già yếu như thế này: một người nếu không còn ham muốn đối với cuộc sống nữa, thì kể như người ấy đã già rồi. Những nghiên cứu chống già yếu của y học hiện nay vẫn tập trung chủ yếu vào việc thông qua các biện pháp dùng thuốc, biện pháp tâm lý truyền thống và hiện đại, cũng như các biện pháp dưỡng sinh để trì hoãn tốc độ tăng lên của tuổi sinh lý, giữ gìn và bảo vệ hoạt động bình thường của các chức năng sống quan trọng của cơ thể con người, duy trì hoạt động sinh lý khỏe mạnh, hạ thấp đến mức tối đa tốc độ và mức độ của quá trình suy yếu do tuổi già, thực hiện mục tiêu lão hóa khỏe mạnh.