hn4u @ Last updated 21/11/04 22:42
Go to my homepage at http://4u.jcisio.com
Full version available at http://4u.jcisio.com/r/article492.htm

thinhle@tlnet.com.vn

Kỹ thuật nối mạng Windows NT

Cách đây 3 năm, Windows NT là hệ điều hành thay thế cho Windows 95. Lúc đó, chẳng ai nghĩ rằng Windows NT sẽ trở thành hệ điều hành thay thế Novell NetWare hay thậm chí UNIX. Xét cho cùng, NetWare và UNIX đều được thiết kế để hỗ trợ hàng ngàn người dùng trong toàn công ty, chứ không cho một máy tính văn phòng như Windows 98. Tuy nhiên đó là những gì đã qua. Windows NT bắt đầu tỏ rõ sức mạnh, đầu tiên nó trở thành máy phục vụ ưu việt hơn NetWare, sau đó lấn sang đối thủ UNIX.

Sự phát triển phi thường này thể hiện rõ nhất trong ngành máy phục vụ Web. Windows NT Server (đi đôi với IIS - Internet Information Server), đã làm lu mờ cái từng là nền máy phục vụ Web chính, UNIX. Hãy so sánh con số đó với 8%công ty dự tính triển khai máy phục vụ Web trên UNIX.

Vì Windows NT có thể bắt chước và thậm chí vượt trội hơn UNIX và NetWare nên sẽ có một lúc nào đó bạn sẽ chạm trán với hệ điều hành này. Bạn cần nối máy phục vụ Windows NT để in tài liệu ra máy văn phòng, để chạy chương trình ứng dụng chung hoặc đơn giản lưu file trên mạng. Bất kỳ lý do nào, bạn sẽ thấy Windows NT sao mà đơn giản, linh hoạt và dễ chịu đến thế.

Đó là do Windows NT rất giống với Windows 98. Windows NT dùng cùng giao thức mạng, kết nối cùng tài nguyên mạng, thậm chí duyệt dịch vụ mạng trên cùng giao diện. Muốn kết nối máy Windows NT từ Windows 98, bạn chỉ mỗi việc mở Network Neighborhood và chọn máy là xong. Trên Network Neighborhood máy Windows 98 lẫn Windows NT đều được xử lý giống nhau.

Tuy tương đồng là vậy song giữa Windows NT và Windows 98 có vài khác biệt đáng lưu ý. Windows NT dùng hệ thống xác nhận và bảo mật khác hẳn. Chẳng hạn bạn không truy nhập được dữ liệu Windows NT nếu không có tên người dùng và mật khẩu hợp lệ, điều này đối với Windows 98 thì được. Bạn phải có tài khoản người dùng cùng với quyền truy nhập thích hợp trên máy phục vụ Windows NT rồi mới được phép truy nhập tài nguyên.

Tại sao nối mạng Windows NT

Thoạt nhìn, Windows NT và Windows 98 có vẻ là một. Chúng đều có chung đặc điểm về giao diện và mạng. Nhưng tương tự chỉ đến đó là hết. Không như Winows 98 (xây dựng trên 2 thế hệ hệ điều hành Windows 3.1 và Windows 95), Windows NT giờ vẫn giống như thuở nó mới được khai sinh vào đầu thập niên 90. Khởi đầu, Windows NT được thiết kế để cung cấp cho người dùng môi trường điều hành Windows 4 đặc điểm cơ bản sau:

Tính năng cao

Windows NT xây dựng trên nhân UNIX thử nghiệm (gọi là Mach OS) vốn đa nhánh và giành ưu tiên. Với hai đặc tính này, Windows NT có khả năng chạy bất kỳ chương trình ứng dụng Windows NT nào xây dựng bằng Win32 API (Application Programming Interface). Nghĩa là nó có khả năng giành ưu tiên gán nhánh khác trong chương trình ứng dụng như thế. Trên hệ thống đa xử lý (máy tính có từ 2 CPU trở lên), những chương trình ứng dụng này có thể chạy đồng thời trên nhiều bộ xử lý khác nhau. Kết quả là tốc độ sẽ khá nhanh. Để hình dung là nhanh như thế nào, bạn hãy ghé thăm địa chỉ www.microsoft.com. Được trang bị bằng máy phục vụ Compaq Pentium Pro chạy Windows NT, địa điểm Web này (gồm hơn 35 máy phục vụ) phân phối hơn 200,000 trang Web và xử lý hơn 120,000,000 cuộc gọi mỗi ngày.

Mạnh

Tốc độ chưa phải là điểm mạnh duy nhất của Windows NT. Bằng kỹ thuật hệ thống phụ bảo vệ, Windows NT có khả năng cách ly chương trình ứng dụng nhánh này với chương trình ứng dụng nhánh khác trên những không gian bộ nhớ biệt lập. Nếu một chương trình ứng dụng hoặc một máy bị sự cố, phần còn lại của chương trình hay chương trình khác sẽ không bị ảnh hưởng gì. Hơn nữa, nếu lỡ có lỗi xuất hiện, lỗi đó sẽ bị bẫy thông qua dịch vụ Dr. Watson. công cụ này đóng vai trò gần như bộ gỡ rối chương trình, có khả năng cho bạn biết đích xác sự cố.

Bảo mật

Windows NT còn đạt điểm cao trong vấn đề bảo mật, nhận cấp độ bảo mật C-2 cho máy tính văn phòng và máy phục vụ. tức là chương trình ứng dụng không thể đánh cắp tên người dùng và mật khầu từ chương trình ứng dụng khác hay từ hệ điều hành. Cũng có nghĩa không thể truy nhập máy Windows NT nếu không có tên người dùng và mật khẩu hợp lệ.

Thí dụ cho cơ chế bảo mật Windows NT là kiểm soát truy nhập tùy nghi. Khả năng này cho người dùng đóng vai là chủ nhân đối tượng trên Windows NT. Giả sử người dùng A sở hữu thư mục C:\users\userA. Ngoài ra người dùng có thể sử dụng dịch vụ như sao kưu Windows NT. Thi hành C-2 có nghĩa là hai người dùng này và chỉ hai người dùng này mà thôi mới được quản lý và kiểm soát truy nhập dịch vụ.

Chương trình ứng dụng

Bên cạnh những đặc tính trên, lý do hợp lý nhất cho việc nối mạng bằng Windows NT là hỗ trợ chương trình ứng dụng.

Khỏi phải nói, nền Windows 95/98/NT sở hữu cả thị trường chương trình ứng dụng. Ngày càng nhiều nhà phát triển viết chương trình trên nền Windows hơn. Và sao lại không nhỉ? bằng cách viết trên nền Windows thông qua Win32 API, vô hình chung, nhà phát triển lấy được hỗ trợ chương trình ứng dụng trên hai hệ điều hành Windows khác. Thí dụ: bộ chương trình kế toán chạy trên Windows NT thì dễ dàng chạy trên Windows 98. Tất nhiên là có một số ngoại lệ. Giả sử nhà phát triển viết chương trình ứng dụng là dịch vụ chứ không phải xử lý, chương trình ứng dụng đó chỉ chạy được trên Windows NT vốn hỗ trợ dịch vụ lẫn xử lý.

Gần trọn chương trình này nói về cách đăng nhập máy phục vụ Windows NT với tư cách người dùng cục bộ, nơi bạn thi hành chương trình ứng dụng như một xử lý. Tuy nhiên, đó chỉ là một nữa câu chuyện. Nửa còn lại liên quan đến dịch vụ, nơi bạn nối chương trình ứng dụng chạy trên máy Windows NT. Đây là cách hoạt động của hầu hết chương trình ứng dụng mạng. Microsoft Word là một thí dụ về xử lý. bạn thi hành các tương tác trực tiếp trên hệ điều hành. Tuy nhiên đối với dịch vụ chương trình ứng dụng như máy phục vụ Web, bạn nối máy Windows NT mà không cần đăng nhập với tư cách người dùng. Máy khách Web giao tiếp thẳng với dịch vụ Web chạy trên máy phục vụ.

Kết nối Windows NT

Trước khi thi hành chương trình ứng dụng hay lưu file trên máy Windows NT,  bạn phải thiết lập máy khách Windows 98 sao cho nó giao tiếp được với Windows NT. Nếu bạn đã lập cấu hình cho Windows 98 giao tiếp với máy khách Windows 98 khác, thì máy của bạn đã sẵn sàng nối Windows NT rồi đó. Khả năng này là khả dĩ vì Windows NT và windows 98 đều dùng cùng giao thức mạng. Nếu đã thiết lập rồi và mạng hoạt động như ý bạn, hãy xem phần cuối tài liệu này "Làm việc với Windows NT". Còn như bạn cần cài đặt và lập cấu hình giao thức khác hoặc giả bạn muốn chắc chắn nối kết mạng đã lập cấu hình hợp lý thì hãy xem tiếp.

Những điều cần biết về nối mạng bằng Windows NT

Trước khi bắt tay vào nối mạng bằng Windows NT, bạn cần tiến hành một nghiên cứu nhỏ. Như bất kỳ chuyến phiêu lưu nào, bạn càng nắm nhiều thông tin thì cuộc hành trình sẽ càng thuận lợi hơn. cần nhắc 2 mặt sau: Chọn lựa giao thức& Bảo mật và xác nhận

Chọn lựa giao thức

Như đã nêu ở trước, Windows 98 và Windows NT truy nhập cùng giao thức là

Đừng lo lắng khi bạn thấy danh sách giao thức trên hơi dài. Thật ra Windows không cần hết các giao thức trên đâu. Ngược lại, bạn chấp nhận NetBEUI hay TCP/IP là quá đủ rồi. Tuy nhiên, cũng có nghĩa là bạn có thể dùng hoán đổi giao thức. Mỗi giao thức được thiết kế để thực hiện tác vụ mạng chuyên dùng với hệ điều hành và chương trình ứng dụng cụ thể. Lấy IPX/SPX của hãng Novell làm thí dụ, giao thức này cho người dùng nối máy khách/máy phục vụ với hệ điều hành mạng NetWare. Thông qua IPX/SPX, người dùng NetWare có thể in ra máy in mạng hay mở file lưu trên máy phục vụ NetWare. TCP/IP cho người dùng nối kết ngang hàng qua mạng diện rộng. Với TCP/IP, người dùng có thể nối máy ở nửa bên kia thế giới và làm việc trên máy đó như thể làm việc trên máy mình vậy.

Đứng về mặt chức năng, NetBEUI nằm ở giữa hai giao thức trên. thông qua NetBEUI, bạn có thể in hay lưu file trên máy Windows NT, hoặc có thể đăng nhập máy Windows NT và thi hành chương trình ứng dụng từ xa. Thế nhưng bạn không truy nhập chương trình ứng dụng hay dịch vụ IPX/SPX hay TCP/IP với giao thức này. Trừ trường hợp có ai đó xây dựng máy phục vụ Web dùng NetBEUI làm giao thức vận tải còn thì bạn không dùng NetBEUI để duyệt trang Web trên máy phục vụ Windows NT. Các giao thức khác trong phần này theo thông lệ là không dùng với Windows NT, tuy có thể được. Phần này chỉ đi vào NetBEUI, IPX/SPX và TCP/IP, những giao thức còn lại, bạn xem ở những tài liệu thích hợp hơn.

Điểm thần kỳ trong nối mạng Windows NT là bạn không cần chọn lựa giữa 3 giao thức. bạn có thể chọn hết vì Windows 98 có thể gán nhiều giao thức cho một card giao diện mạng. Tuy thế, trước khi nạp tất cả giao thức bạn có trên máy Windows 98, nhớ xem kỹ nhu cầu nối kết. Mỗi giao thức đều cần thời gian xử lý. Bổ sung giao thức một cách bừa bãi là bạn đã kết thúc ở hiệu suất thi hành mạng kém nhất.

Nói tóm lại, NetBEUI là giao thức thứ yếu thiết kế cho nối kết máy khách/máy phục vụ trên phạm vi mạng cục bộ. NetBEUI thuộc hệ giao thức mạng Microsoft Windows, nối máy Windows 3.x for Workgroups hay nối máy Windows 3.x với máy phục vụ LAN Manager. Bởi vậy, NetBEUI không định tuyến trên mạng diện rộng hay bất kỳ mạng nào có nhiều phần. Nên ngay từ trước, hãy ý thức rằng bạn có ý định nối máy phục vụ Windows NT từ xa, NetBEUI sẽ không phải là giao thức cho bạn. Tuy nhiên, những gì mà NetBEUI làm được là cung cấp nối kết khắp nơi trên Windows. Nếu bạn có khoảng 50 máy chạy trên mạng cục bộ LAN Manager, Windows for Workgroups hay Windows NT, NetBEUI sẽ cho bạn nối kết nhanh chóng và dễ dàng.

Với NetBEUI là giao thức mạng độc nhất, bạn có thể nối máy Windows NT, đăng nhập máy và thao tác file ngay sau đó. Tóm lại, bạn tiến hành gần như mọi tác vụ Windows NT. Tuy nhiên, NetBEUI chưa phải là một giao thức hoàn chỉnh trên sơ đồ OSI (Open System Interconnection). Nó chỉ đề cập tầng Network và Transport, bỏ lửng tầng Session, Presentation và Application.

Layer nameNo.
  Application                    7    
  Presentation6
  Session5
  Transport4
  Network3
  Data Link2
  Physical1

Vì lý do trên, dù bạn có nối máy Windows NT nó vẫn không nối được với bạn. Hơn nửa, bạn chẳng sao nối được chính mình (lỡ bạn thích thế). NetBEUI cần thêm chút trợ giúp từ giao thức khác. Giả dụ bạn bổ sung thêm IPX/SPX và NetBEUI và kích hoạt NetBIOS trên IPX/SPX là bạn đã sẵn sàng chạy chương trình ứng dụng NetBEUI mà không cần cài hết dãy các giao thức. Muốn biết thêm chi tiết, bạn xem phần "cài đặt giao thức". Vì vậy bạn nên dùng NetBEUI làm giao thức chính từ đó bổ sung giao thức phụ theo nhu cầu. bạn sẽ thấy hữu ích bất kể đang chạy chương trình ứng dụng nào, vì Windows 95/98/NT đều biên dịch danh sách máy tính mạng bằng NetBEUI. Tức là khi bạn mở hộp thoại Network Neighborhood, Windows sẽ dùng chính NetBEUI để hiển thị danh sách máy phục vụ.

Trong hai chọn lựa giao thức phụ cho NetBEUI, TCP/IP là hữu dụng nhất cho phần lớn môi trường mạng. Giao thức này có cách đây khoảng 30 năm, do một nhóm sinh viên đại học California phát triển thành giao thức mạng cho hệ điều hành mới UNIX. Nó được thiết kế để cung cấp dịch vụ mạng ngang hành cho người dùng UNIX. Thí dụ: một sinh viên cơ khí cần đăng nhập máy UNIX của sinh viên khác để biên dịch hay kiểm tra chương trình, anh ta có thể thiết lập nối kết đó bằng TCP/IP. Kết quả là máy tính của sinh viên này trở thành Terminal cho máy tính của sinh viên khác.

Vì Internet khởi thuỷ từ môi trường đại học, nên ngày nay bạn có thể đăng nhập một trong hàng triệu máy trên Internet bằng chương trình ứng dụng TCP/IP ngang hàng. Tuy nhiên, tiếng tăm và tính hữ ích của TCP/IP lại xuất phát từ việc ông Tim Berners Lee công nhận là giao thức chọn vào đầu thập niên 90. Lúc bạn duyệt Web dưới bất kỳ hình thức nào là bạn thực hiện thông qua HTTP vốn chỉ chạy trên TCP/IP.

Thành công lớn nhất của TCP/IP trên Internet là TCP/IP còn vào thế giới mạng cục bộ và mạng diện rộng. Khi bạn cài Windows 98/NT, hay gần như bất kỳ hệ điều hành nào khác, giao thức mặc định sẽ là TCP/IP. TCP/IP trở thành ngôn ngữ chung của mạng. Mọi người ai cũng biết. Thế nhưng "mọi người" đó còn chưa tính hệ điều hành. Windows 98/NT vẫn phải trao đổi thông tin tên người dùng và mật khẩu bằng NetBEUI hay IPX/SPX. Vì lẽ đó, TCP/IP vẫn là giao thức chương trình ứng dụng. TCP/IP rất hữu dụng đối với chương trình ứng dụng như Web và FTP, nhưng với Windows NT thì không. Bởi vậy, bạn nên dùng TCP/IP kết hợp với IPX/SPX hay NetBEUI. Cách thực hiện bạn xem phần "Lập cấu hình giao thức".

IPX/SPX cung cấp dịch vụ file và in cho người dùng. Đây là giao thức chính trên hệ điều hành mạng Novell NetWare, tuy gần đây hãng Novell nổ lực rất lớn trong việc nhập dịch vụ IPX/SPX vào TCP/IP. Thực tế hãng Microsoft dự tính dùng TCP/IP làm giao thức mặc định trên Windows NT. Không như NetBEUI, IPX/SPX là một giao thức hoàn chỉnh. IPX/SPX không cần thêm gì hết và có khả năng hoạt động trên nhiều phần mạng cục bộ. Nhưng khác với TCP/IP, IPX/SPX không cung cấp được dịch vụ mạng diện rộng hoàn hảo.

Vì là giao thức hoàn chỉnh nên chỉ cần IPX/SPX là nối được máy Windows NT. Bạn bảo đảm cài dịch vụ Client for Microsoft Networks trên máy khách và IPX/SPX trên máy Windows NT là được (bởi đây không  phải là giao thức điển hình như NetBEUI và TCP/IP trên Windows NT). Vậy tại sao lại cài đặt IPX/SPX? Hãy giả sử bạn làm việc trên môi trường có máy phục vụ NetWare, dùng IPX/SPX sẽ đơn giản hơn. chẳng hạn trên máy Windows NT có cài NDS thì nảy sinh yêu cầu IPX/SPX trên máy khách. còn nữa, bạn có thêểdi chuyển từ NetWare vào Windows NT, IPX/SPX sẽ giúp bạn di chuyển dễ dàng vì cả hai hệ điều hành cùng hỗ trợ.

Gợi ý cài đặt giao thức

Trường hợp bạn làm việc trên môi trường thỏa nhiều tiêu chuẩn trên, bạn nên cài đặt giao thức cần thiết để nối máy đang dùng, đừng quên NetBEUI đòi hỏi IPX/SPX hay TCP/IP mới làm tròn chức năng. Giả dụ môi trường NetWare có máy phục vụ LAN Manager, bạn hãy cài NetBEUI với IPX/SPX. Ngược lại nếu bạn có môi trường Windows NT và nối Internet thì cài kết hợp NetBEUI và TCP/IP.

Bảo mật và xác nhận

Tuy không phức tạp như chọn lựa giao thức song nghiên cứu yêu cầu bảo mật và xác nhận lại không kém phần quan trọng. nếu bạn không tìm thấy yêu cầu bảo mật nào phải đáp ứng để nối máy Windows NT bạn sẽ không bao giờ nối được.

Việc trước tiên là xem máy Windows NT đích có phải là một phần trong vùng hay không, rất quan trọng cho sau này. Nếu không phải là một phần trong vùng thì là một phần trong Workgroup.

Đây là tập hợp lỏng lẻo những máy tính khả kiến đối với máy khác. Trong từng trường hợp bạn phải biết tên vùng hay Workgroup đó cùng với tên người dùng và mật khẩu.

Bạn tạo tên người dùng và mật khẩu bằng User Manager for Domain trên Windows NT.

Chỉ cần công cụ này chỉ đúng vùng hay nhóm làm việc, chọn menu "User", New User" rồi theo các dấu nhắc.

Nếu bạn không phải là người quản trị nhóm làm việc hay vùng Windows NT muốn nối thì phải nhờ người quản trị hệ thống giúp đỡ vậy.

Những việc cần làm khi nối mạng bằng Windows NT

Quyết định xong giao thức chạy và lấy xong thông tin xác nhận vùng/Workgroup, việc còn lại là cài đặt giao thức và chỉ đúng máy khách Windows 98.

Khởi sự bạn nháy Start trên thanh tác vụ, chọn Setting, chọn Control Panel, nháy kép biểu tượng Network trên cửa sổ Control Panel. Hộp thoại Network được hiển thị để bạn thựchiện nốt thủ tục lập cấu hình mạng.

Do nhiều giao thức sử dụng cùng máy khách, bạn lập cấu hình cùng một lúc. Để cài đặt, bạn nháy nút Add rồi chọn từ danh sách Select Network Protocol. Bạn cài đặt giao thức theo nhu cầu mạng của bạn và theo những gợi ý đã nêu.

Chọn giao thức riêng. Trên tài liệu này, chúng ta dùng giao thức do Windows 98 đưa ra. Thế nhưng bạn không nhất thiết bó buộc vào đó. Bạn có thể lấy giao thức của người bán bất kỳ.

Xong bước cài đặt giao thức và Client for Microsoft Networks, giờ bạn chuyển sang cài đặt dịch vụ mạng, đặt biệt là dịch vụ File and Printer Sharing for Microsoft Networks. Dẫu chẳng cần thiết cho nối kết sơ đẳng, song dịch vụ này cho bạn dùng chung máy in với người dùng khác.

Để cài đặt dịch vụ File and Printer Sharing for Microsoft Networks, bạn nháy nút Add từ Tab Configuration trên hộp thoại Network. Tiếp đó nháy Service. Chọn Microsoft trên cửa sổ Network Service, làm nổi bật File and Printer Sharing for Microsoft Networks rồi nháy OK. Vậy là xong, dịch vụ này chẳng có gì phải lập cấu hình, giờ bạn lập cấu hình các giao thức vừa cài đặt.

Nghe thì có vẻ hơi đáng sợ, song việc lập cấu hình giao thức chẳng cần mấy công sức. Đơn giản bạn giải quyết những vấn đề như: giao thức mặc định, địa chỉ IP, NetBIOS, ....

Có giao thức rồi, bạn phải cho Windows 98 biết cách sử dụng chúng để nối máy khách (nhất là Windows NT). Việc thực hiện đầu tiên tùy thuộc nhiều vào máy phục vụ Windows NT. Mặc dù phần lớn máy tính và card giao diện mạng biết cách quản lý nhiều giao thức trên một nối kết mạng, nhưng duy nhất một giao thức là chính mà thôi. Trong nối mạng Windows NT bằng Client for Microsoft Networks, bn chỉ có thể biến NetBEUI hay TCP/IP thành giao thức mặc định. IPX/SPX đơn giản là không được.

Thật ra, quy định giao thức mặc định không phải là yêu cầu sống còn nhưng nên làm khi bạn chủ yếu nối một máy phục vụ hay nối một giao thức trên nhiều máy phục vụ. Khi bạn khởi động Windows 98, giao thức hính này sẽ nhập cuộc trước tiên. Những giao thức khác sẽ theo sau, nếu máy phục vụ Windows NT chạy IPX/SPX như giao thức chính, còn bạn lại chạy TCP/IP như giao thức chính, máy tính sẽ phải mất thêm công sức nối hợp lý. Một khi đã xác định giao thức mặc định, bạn chọn giao thức trên Tab Configuration trên cửa sổ Network, kế đó nháy Properties. Nháy Tab Advanced rồi nháy vào hộp kiểm Set this protocol to be the default protocol.

Trong 3 giao thức cài đặt, NetBEUI là dễ lập cấu hình nhất. chọn xong bạn chỉ việc bảo đảm nó liên kết đúng thành phần mạng, tức là sẽ giao tiếp với Clien for Microsof Networks và dịch vụ File and Printer Sharing for Microsoft Networks.

Để bảo đảm NetBEUI liên kết hợp lý, bạn chọn NetBEUI từ Tab Configuration trên hộp thoại Network, tiếp đó nháy Properties. chọn Tab Binding và xem đã chọn dịch vụ và phần mềm máy khách chưa.

So với NetBEUI, IPX/SPX khó hơn một bậc. Trước hết bạn kiểm tra xem IPX/SPX liên kết dịch vụ và phần mềm máy khách thích hợp chưa. vận dụng kiến thức về loại chương trình ứng dụng chạy trên mạng để quyết định xem có nên kích hoạt NetBIOS trên IPX/SPX hay không. Một số chương trình ứng dụng (đặc biệt là các chương trình chạy trên Novell, LAN Manager, IBM OS/2) dùng NetBIOS làm giao thức tầng Session chính. Vì vậy, nếu bạn có môi trường mạng hay chương trình ứng dụnh cho môi trường chạy giữa máy của bạn và máy Windows NT, bạn phải chạy NetBIOS trên IPX/SPX. Nháy nút Configuration như bạn đã thực hiện với NetBEUI, chọn Tab NetBIOS. Ở đây bạn nháy hộp kiểm là xong.

Lúc cửa sổ IPX/SPX Properties được hiển thị, nháy Tab Advanced, chọn Frame Type. Nháy menu Value, chọn Frame Type thích hợp. Sau đây là những Frame Type có sẵn cùng với loại mạng:

Ngoài ra còn thêm hai kiểu khung nữa: Token Ring và Token Ring SNAP. Những kiểu khung này dùng hạn chế với cơ sở hạ tầng mạng Token Ring. Bạn sẽ hiểu nếu có cơ sở hạ tầng mạng như thế.

Giao thức lập cấu hình cực khó là TCP/IP. bạn phải biết nhiều thông tin mới lập cấu hình giao thức này một cách hợp lý. Nhưng trước khi đi vào phần khó, bạn cho hiển thị cửa sổ TCP/IP Properties và kiểm tra các liên kết trước đã. xong rồi, bạn nháy Tab NetBIOS. Nếu đã chọn NetBIOS trên IPX/SPX, bạn sẽ không quy định được ở đây.

Đây là phần khó. Trước lúc nối máy phục vụ Windows NT bằng TCP/IP, bạn phải nắm thông tin sau:

Xác nhận. Bước cuối cùng là lập thông tin nhận diện trên máy. chủ yếu là bạn cho thế giới biết bạn là ai và bạn muốn nhập mạng. đầu tiên bạn lập nhận diện máy tính. Nháy Tab Identification từ cửa sổ Network, nhập tên máy tính. tên thật không thành vấn đề. Bạn có thể lấy tên đại loại như Sunlight-IR. Tuy nhiên, tên máy tính không được phép trùng lặp nhằm tránh sự nhầm lẫn máy của bạn với máy khác. Sau đó, bạn quy định nhóm máy tính hay vùng trên Workgroup. Bạn lấy tên này thông qua người quản trị hệ thống, nó phải y chang tên Workgroup dùng cho thành viên khác trên mạng mà bạn muốn làm việc.

Sau cùng là nhập phần mô tả máy tính thật ngắn gọn. Tốt nhất là nhập tên đầy đủ của bạn và tên phòng ban. Máy tính khác sẽ lấy thêm thông tin về máy của bạn qua vùng này.

Máy của bạn giờ đã có tên, bạn phải cho nó biết cách dùng tên đó để truy nhập máy Windows NT. chọn mục Client for Microsoft Networks trên Tab Configuration, nháy Properties. Bạn cho máy biết cách đăng nhập Windows NT nếu bạn là thành viên vùng Windows NT, hãy chọn Logon validation rồi điền tên máy điều khiển vùng Windows NT.

Cũng hộp thoại này, nếu bạn không thuộc vùng Windows NT, bạn có thể bỏ qua phần Logon Validation và chọn giữa hai phương pháp đăng nhập:

Nháy hộp kiểm Quick Logon nếu như bạn muốn Windows 98 phục hồi nối kết ổ đĩa hiện tại với máy Windows NT sau khi tái khởi động hoặc đóng. Tùy chọn này tối ưu trong trường hợp bạn sử dụng Laptop vì nó cho bạn lập nối kết thường trực (ánh xạ ổ đĩa) mà khỏi cần nối lại ổ đĩa đó trong lần khởi động tới.

Còn muốn nối kết tự động phục hồi - lý tưởng cho máy tính văn phòng, bạn chọn Logon and restore network connections.

Đó là tất cả những gì cần làm để nối máy Windows NT. Tuy nhiên, trước khi nối, cần thiết lập loại bảo mật nào đó cho hệ thống. chúng ta sẽ lướt qua thủ thục cơ bản đó, cho phép mọi người truy nhập máy của mình.

Lập xong nhận diện, bạn thiết lập hình thức kiểm soát truy nhập máy tính. Trên hộp thoại Network, nháy Tab Access Control, chọn một trong hai tùy chọn có sẵn. Về cơ bản, bạn chọn giữa kiểm soát truy nhập cấp độ người dùng chung, bạn chọn mật khẩu cho từng mục dùng chung trên máy. Còn với cấp độ người dùng, bạn liên kết tên người dùng thật cùng với từng mục dùng chung. nếu chọn kiểm soát truy nhập cấp độ người dùng, bạn quy định tên máy Windows NT trong tên tài khoản muốn dùng trên máy Windows NT. Bạn nên chọn kiểm soát truy nhập cấp độ người dùng chung vì đó là giải pháp đơn giản nhất song cũng linh hoạt nhất. Và như bạn thấy, nó còn kiểm soát truy nhập máy tính rành mạch nhất. Về cơ bản, hai loại bảo mật này khác nhau ở chỗ truy nhập cấp độ người dùng đòi hỏi người dùng nhập mật khẩu và tên người dùng để nối máy. Kiểm soát chế độ người dùng cho người dùng nối bằng mật khẩu (hoặc chẳng bằng gì hết nếu bạn thiết lập máy theo cách đó).

Muốn hoàn tất bước kiểm soát truy nhập, bạn vào hộp thoại Network, chọn Client for Microsoft Networks trên menu Primary Network Logon.. Tùy chọn này yêu cầu Windows 98 kích hoạt giao thức và gởi thông báo về sự có mặt của máy phục vụ trên mạng khi bạn khởi động. Nếu nuốn máy khác truy nhập tệp tin và máy in, bạn nháy File and Printer Sharing trên hộp thoại Network rồi đánh dấu vào hai hộp kiểm "I want to be able to give others access to my file" và I want to be able to allow other to print to my printer(s).

Thư mục dùng chung:

Để máy khác có thể truy nhập file và máy in trên máy của bạn, bạn phải tạo thư mục dùng chung cho những tài nguyên này. về cơ bản, một thư mục dùng chung nhận diện tài nguyên trên máy bạn muốn biến thành khởi dụng đối với người dùng khác trên mạng. Thư mục dùng chung còn nhận diện người dùng nào truy nhập tài nguyên thông qua danh sách người dùng hay mật khẩu. Giờ bạn chỉ cần thiết lập thư mục dùng chung đĩa cứng cho phép người dùng truy nhập thông qua mật khẩu đơn giản. Muốn thực hiện được việc này, bạn mở cửa sổ My Computer, nháy phải chuột lên ổ đĩa hoặc thư mục muốn dùng chung rồi chọn lệnh Sharing trên trình đơn tắt. Chọn kiểu dùng chung rồi đặt tên cho ổ đĩa hoặc thư mục dùng chung. Tên này được hiển thị như tên ổ đĩa hay thư mục đối với máy tính khác.

Tiếp theo thiết lập loại truy nhập máy tính. Hiện hành đang chọn Full. tùy chọn này cho người dùng khả năng xem và thi hành file. Kế đó gõ mật khẩu truy nhập máy rồi nháy OK. Khi này bạn sẽ thấy có hình bàn tay màu xanh đỡ phía dưới ổ đĩa hay thư mục bạn vừa Share.

Hiện giờ thì máy của bạn có thể nối Windows NT thông qua TCP/IP, IPX/SPX và NetBEUI. máy cũng sẵn sàng chấp nhận nối kết từ máy khác thông qua cùng giao thức.

Làm việc với Windows NT

Phần khó đã qua rồi, giờ thì đến phần dễ, sỡ dĩ nói vậy là vì một lý do thật đơn giản: Làm việc với máy phục vụ Windows NT từ xa y hệt như làm việc với máy Windows 98 của bạn vậy. Thư mục, phiên làm việc MS-DOS, chương trình ứng dụng - Mọi khía cạnh của Windows 98 đều dịch sang Windows NT.

Truy nhập file

Việc chắc chắn bạn muốn làm khi nối Windows NT là truy nhập file hay chương trình ứng dụng. Về bản chất, mạng sẽ chứa nhiều biểu thượng khác nhau. Vì là mạng thử nghiệm nên chỉ chứa có hai biểu thượng mà thôi. Song chúng ta đề cập đến vì nó minh họa cho một điểm quan trọng là nếu bạn thấy máy tính của bạn trên thư mục Network Neighborhood thì người khác cũng thấy nó. còn như bạn không thấy máy của mình thì cấu hình mạng của bạn có gì không ổn rồi.

Trường hợp bạn không rõ máy nào ở trên thư mục này, hãy nháy phải chuột lên biểu tượng máy tính rồi chọn lệnh Properties trên trình đơn tắt. Mục này hiển thị hộp thoại tên máy tính và phần mô tả máy tính đó. Xem xong bạn nháy OK.

Để làm việc với máy phục vụ Windows NT từ xa, nháy nháy kép biểu tượng máy mong muốn. Thêm một cửa sổ nữa mở ra, chứa tài nguyên có sẵn cho máy đó (ổ đĩa, thư mục, máy in, ...). Nên nhớ là đã lập tài khoản của bạn trên máy phục vụ Windows NT. Từ lúc này, bạn có thể nháy kép tài nguyên mong muốn và bắt đầu làm việc thông qua giao diện Windows 98, hoặc nháy phải chuột lên biểu tượng rồi ánh xạ ổ đĩa.

Phương pháp duyệt thư mục đáp ứng hầu hết các yêu cầu của bạn. Một khi đã duyệt máy phục vụ từ xa, bạn có thể mở file bằng cách nháy kép. đối với chương trình ứng dụng cũng vậy - giả định chương trình ứng dụng không đòi hỏi truy nhập thanh ghi (Registry) trên máy từ xa. Tức là loại truy nhập trong phần này không dành cho thi hành từ xa chương trình ứng dụng như Microsoft Office. Tất nhiên bạn có thể nếu người quản trị hệ thống đã cài đặt file dữ liệu Office trên máy phục vụ và cung cấp cho bạn chương trình cài đặt. Truy nhập Registry dành để thi hành chương trình ứng dụng đơn giản. Thí dụ, bạn muốn chạy trình cài đặt chương trình ứng dụng như Netscape Nevigator từ máy Windows NT.

Để dễ dàng kiểm soát hơn bạn nên áp dụng phương pháp nối kết trong đó bạn thiết lập ánh xạ ổ đĩa. Nháy mục Map Network Drive, bạn sẽ thấy một cửa sổ được hiển thị: Trên menu Drive, bạn chọn ra ký tự ổ đĩa có sẵn. Ngoài ra, bạn có thể quy định nối lại ánh xạ ổ đĩa này mỗi lần khởi động máy. Trừ khi bạn sử dụng Windows 98 trên máy tính văn phòng, còn thì bạn không nên nối lại vào lúc đăng nhập vì lỡ khi bạn không nối cùng một mạng, báo lỗi sẽ hiện ra. Khi đã sẵn sàng, bạn nháy OK. Một cửa sổ mới hiển thị với nhãn tương ứng với ký tự ổ đĩa vừa chọn. bạn có thể thao tác tùy thích trong thư mục này. điều tối quan trọng là giờ bạn mở được MS-DOS từ Start và đổi ký tự ổ đĩa thành ổ đĩa mới ánh xạ.

Ánh xạ ổ đĩa rất hữu ích cho chương trình cũ vốn không biết diễn dịch ký pháp UNC (Universal Naming Convention). Chẳng hạn như chương trình Lotus cc:Mail 2.0 không biết là gì để hiểu \\Tadanori\c\ccmail. Nhưng biết cách xử lý G:\ccmail.

Ánh xạ ổ đĩa cũng ích lợi vì chúng cho bạn thực hiện những việc cần thiết nhằm thi hành chương trình ứng dụng trên máy phục vụ. Chẳng hạn như lập thông số môi trường. Giả dụ bạn cài JDK (Java Development Kit) trên máy phục vụ Windows NT, bạn phải có ánh xạ ổ đĩa, bạn có thể mở phiên làm việc MS-DOS trên máy của mình, vào ổ đĩa chứa JDK, lập câu lệnh CLASSPATH và PATH, rồi bắt đầu viết mã.

Script đăng nhập

Bạn có thể nhờ Windows NT tự động phục hồi nối kết mạng khi khởi động hệ điều hành. Hẳn là tiết kiệm được khối thời giờ rồi, song đó chỉ là một nửa đoạn đường mà thôi. Muốn tự động hóa hoàn toàn, bạn cần những câu lệnh thiết lập môi trường như CLASSPATH và PATH. Cũng may Windows NT có khả năng đó thông qua Script (kịch bản) đăng nhập. Một khi bạn đã lập cấu hình đúng Script đăng nhập sẽ thực hiện theo như yêu cầu mỗi lần bạn đăng nhập đơn thuần thi hành chọn lựa khi bạn đăng nhập lần đầu máy Windows NT.

Để tạo Script đăng nhập sao lưu, trước hết bạn cần thiết lập đăng nhập vùng Windows Nt khi khởi động hệ thống. từ thư mục Setting, vào hộp thoại Network. chọn Client for Microsoft Networks, nháy Properties. Trên hộp thoại Propertoes, chọn Logon to Windows NT Domain, nhập tên vùng vào hộp kế tiếp. Ở bên dưới hộp thoại, chọn Logon and restore network connection. Mục này yêu cầu Windows 98 tự động đăng nhập Windows NT và thiết lập ánh xạ ổ đĩa hiện có.

Bước kế tiếp là tạo tệp tin lô. Giả định bạn tạo ánh xạ ổ đĩa C: trên máy phục vụ Windows NT G:, tệp tin lô thích hợp (tạm gọi là backup.bat) sẽ đại khái như sau:

<#code>

echo off

CLS

xcopy c:\usr\personal\html g:\bak\usr\personal\html /v/s/e

Bạn đặt file này ở thư mục gốc trên máy phục vụ Windows NT từ xa. Vào máy phục vụ Windows NT rồi mở chương trình ứng dụng User Manager for Domain (trên thư mục Administrative Tools ở menu Start). Tìm tên bạn trên danh sách Username. Nếu không thấy thì nháy menu User, nháy New User rồi theo các dấu nhắc. Với tài khoản người dùng hợp lệ trong tay, nháy kép nó trên cửa sổ chính User Manager for Domain. Hộp thoại User Properties hiển thị. Nháy kép Profile ở cuối hộp thoại. Hộp thoại Environment Profile hiển thị. Phần còn lại là nhập tên chương trình muốn chạy lúc đăng nhập Windows NT vào hộp Logon Script Name. trong thí dụ này là backup.bat. Nhập xong bạn nháy OK, tái khởi động Windows 98.

Qua thí dụ này, bạn có thể thực hiện bất kỳ tác vụ nào lúc đăng nhập Windows NT.

Truy nhập máy in

Một đặc tính quan trọng hơn trong nối mạng Windows NT là khả năng in từ máy phục vụ Windows NT. Đây là đặc tính dễ sử dụng nhất. Về cơ bản, bạn nối máy in Windows NT như bạn nối ổ đĩa Windows NT vậy. Trước khi làm gì với máy in Windows NT, bạn phải đoan chắc máy in đích là thiết bị dùng chung trên Windows NT. Để xác minh, bạn mở thư mục Printers từ menu Start trên Windows NT rồi tìm biểu tượng bàn tay bên dưới máy in.

Giờ bạn sẵn sàng làm việc với máy in này từ Windows 98. cơ bản có 2 cách in bằng máy in Windows NT:

Mở thư mục Network Neighborhood rồi nháy kép biểu tượng máy Windows NT. Nháy kép biểu tượng máy in, một hộp thoại hiện ra hỏi bạn có muốn cài đặt phần mềm cục bộ cho máy in hay không. Nháy Yes rồi theo Add Printer Wizard, chọn trình điều khiển máy in thích hợp. Nếu bạn mở thư mục Printers, bạn sẽ để ý thấy biểu tượng máy in có gắn cable dẫn mạng.

Máy in này đóng vai trò như máy in cục bộ. Muốn in file, bạn có thể kéo thả file lên biểu tượng máy in hoặc gán thành máy in mặc định. Điểm khác biệt duy nhất ở máy in này thật ra là "lối vào" phần mềm chạy trên máy phục vụ Windows NT.

Cách cài đặt mạng thứ hai là tạo máy in mới dẫn vào máy in của máy phục vụ. Mở thư mục Printers từ mục Settings trên menu Start. Nháy kép biểu tượng Add Printer, nháy Next rồi đến nút Browse. Nút Network mở kiểu xem tài nguyên mạng theo hình cây. Mở rộng cây cho đến khi tìm thấy đúng máy in, chọn rồi nháy OK. Chọn trình điều khiển máy in thích hợp. bây giờ thì bạn có thể in ra máy in này từ chương trình ứng dụng Windows bất kỳ.


hainam4u @ Last updated 21/11/04 22:42
Go to my homepage at http://4u.jcisio.com