hn4u @ Last updated 21/11/04 22:42
Go to my homepage at http://4u.jcisio.com
Full version available at http://4u.jcisio.com/r/article490.htm

Không rõ

Nối mạng với TCP/IP

TCP/IP (Tranmission Control Protocol/Internet Protocol) dùng làm giao thức mạng trên máy UNIX. TCP/IP cung cấp dịch vụ mạng ngang hàng trên mạng diện rộng và những kiến trúc sư Internet đều dựa trên TCP/IP, bao gồm HTTP (Hypertext Transport Protocol, FTP (File Transfer Protocol), Telnet, SMTP (Simple Message Transport Protocol), POP3 (Post Office Protocol 3), NNTP (Network News Transfer Protocol), ...

Có thời cài đặt và sử dụng TCP/IP trên máy không phải UNIX là một công việc phức tạp đòi hỏi mua dãy giao thức và trình điều khiển từ người bán bên thứ ba. Nhờ vào tính phổ biến của Internet, ngày nay hầu hết hệ điều hành đều hỗ trợ TCP/IP và TCP/IP trở thành giao thức mặc định trong đa số hệ điều hành đó, kể cả Windows 98.

Ở tài liệu "Nối Mạng Windows 98", "Nối Mạng Windows NT", "Nối Mạng Novell NetWare", bạn dùng TCP/IP với Windows 98 để nối mạng theo nghĩa dùng chung tệp tin và máy in. Tài liệu này tập trung vào nối mạng TCP/IP. Chúng ta sẽ điểm qua ba loại mạng TCP/IP, bàn về các bước chuẩn bị cũng như cài đặt và lập cấu hình TCP/IP trên Windows 98. Sau cùng, chúng ta xét đến trình tiện ích và trình ứng dụng TCP/IP đi với Windows 98.

Các loại mạng TCP/IP

Khi nói đến loại mạng TCP/IP, tôi không có ý đưa ra là có phiên bản TCP/IP. Chẳng qua là để phân biệt cấu hình vật lý với hoạt động mạng. Trong nhiều trường hợp người ta dùng chung cơ sở hạ tầng mạng vật lý để hỗ trợ đồng thời cả ba loại mạng TCP/IP.

Internet

Nói đến TCP/IP hầu như mọi người nghĩ ngay đến Internet. Trong NutShell, Internet là mạng toàn cầu liên kết tất cả các hệ thống máy tính. Trong thuật ngữ đời thường, nó cấu thành từ tất cả máy phục vụ Internet dựa trên TCP/IP (Web, FTP, E-Mail, Newsgroups, ...) và máy khách truy nhập máy phục vụ từ bất kỳ nơi đâu trên Internet.

Ngày nay, hầu như doanh nghiệp nào cũng nối kết Internet. Nhiều công ty nhỏ vẫn dùng nối kết quay số để kết nối Internet thông qua nhà cung cấp dịch vụ Internet. Phần nhiều doanh nghiệp vừa và lớn kết nối Internet thông qua nối kết Internet tốc độ cao chuyên dùng.

Bảo mật trở thành mối quan tâm lớn khi mạng công ty kết nối Internet. Vì lý do này, người ta phải lập hệ thống bảo mật để kiểm soát truy nhập mạng công ty từ Internet. Phần mạng "xuất đầu lộ diện" trước Internet là mạng công cộng (Public Network) và mạng công ty ẩn sau hệ thống bảo mật là mạng riêng (Private Network).

Intranet

Intranet là một thuật ngữ khá mới mẻ có ý nói máy phục vụ riêng dựa trên TCP/IP và máy khách truy nhập máy phục vụ trong tổ chức. Truy nhập được giới hạn bằng một số phương tiện, từ xác nhận tên và mật khẩu đơn giản hay hạn chế địa chỉ IP đến hệ thống bảo mật và cổng giao tiếp hay phương tiện cách ly mạng riêng với mạng công cộng và Internet.

Đối với nhiều người, Intranet đơn thuần là một thuật ngữ mới mô tả mạng từng được gọi là mạng cục bộ trong nhiều năm qua. Điểm đáng ghi nhận là có sự khác biệt. Trong khi mạng cục bộ dựa trên giao thức mạng bất kỳ và cho phép trạm làm việc truy nhập trực tiếp tài nguyên dùng chung thì Intranet dựa trên TCP/IP và nhờ cậy vào máy phục vụ chuẩn Internet để cung cấp dịch vụ cho trạm làm việc. Chẳng có gì khác thường khi phần mềm ứng dụng mạng cục bộ mở cơ sở dữ liệu dùng chung và trực tiếp thao tác như thể chúng là tệp tin cục bộ. Trái lại, trình ứng dụng Intranet tương tác với máy phục vụ trình ứng dụng vốn kiểm soát truy nhập dữ liệu và chịu trách nhiệm bảo mật.

Intranet có nghĩa là mạng nội bộ có thể kết nối Internet hoặc không. Nhưng giờ được phân định theo trình ứng dụng thường trực và người dùng chúng. Thật chẳng có gì xa lạ khi từ nhà hay trong lúc đi đường nhân viên truy nhập  trình ứng dụng Intranet thông qua Internet.

Extranet

Thuật ngữ Extranet ám chỉ dịch vụ mạng và máy phục vụ mà đối tác, nhà cung cấp, khách hàng và người ngoài đều có thể truy nhập được. Giống như Intranet, Extranet cũng phân định theo loại trình ứng dụng và người dùng chúng.

Tùy theo nhu cầu bảo mật và cấu hình mạng, máy phục vụ trên mạng công cộng sẽ cung cấp truy nhập hạn chế cho dịch vụ Extranet thông qua mật khẩu. Song máy phục vụ cũng có thể hiện diện trên mạng riêng khi cần bảo mật cao hơn hay người dùng nối mạng riêng khi cần bảo mật cao hơn hay khi người dùng nối mạng riêng thông qua dịch vụ VPN.

Chuẩn bị sử dụng TCP/IP

Nối mạng TCP/IP có lúc đòi hỏi tính khéo léo. Khi đã nắm đúng thông tin trong tay rồi, người dùng mạng chẳng cần nhiều thông tin cần thiết để lập cấu hình TCP/IP trên trạm làm việc. Nhưng đứng trên cương vị là người quản trị mạng, bạn phải hiểu rõ từng xác lập cấu hình có nghĩa gì và tại sao phải dùng chúng.

Nối kết

Việc cần biết đầu tiên là cách nối máy tính với mạng TCP/IP. Windows 98 hỗ trợ nối kết mạng cục bộ truyền thống qua card giao diện mạng và nối kết quay số bằng Modem hay bộ thích ứng ISDN.

Lập địa chỉ IP

Nếu trước đây bạn từng dùng giao thức khác như IPX/SPX hay NetBEUI nhưng chưa quen nối mạng TCP/IP bao giờ, thì điều đầu tiên chắc bạn để ý thấy là khối lượng công việc lập cấu hình xác lập cần thiết. Không như giao thức khác, bạn phải gán thông tin định tuyến và địa chỉ IP cho từng máy tính trên mạng. Tuy thoạt đầu có vẻ là gánh nặng nhưng bạn sẽ sớm nhận ra rằng chính nhờ thế giao thức mới hoạt dộng được.

Tên vùng

Địa chỉ IP rất khó nhập và rất khó nhớ. May sao có một cách khác hay hơn, đó là DNS (Domain Name System). Trong Nutshell, DNS cho phép bạn lập địa chỉ máy khác bằng một cái tên thân quen thay vì địa chỉ IP. Máy phục vụ DNS tra địa chỉ IP tương ứng (máy dùng lập địa chỉ gói dữ liệu TCP/IP trước khi gởi đến đích). Thí dụ bạn nhập www.sunlight.com thay vì gõ 192.168.0.1 mỗi lần muốn viếng thăm địa chỉ Web Sunlight.

Tên vùng thật ra được phân tích từ phải sang trái phân cách bằng dấu chấm. Ký hiệu nhận diện ở góc phải là tên vùng cấp cao.

Người ta còn lập thêm tên vùng cấp cao cho những quốc gia cụ thể (thí dụ: UK cho Vương Quốc Anh, DE cho Đức, VN cho Việt Nam, ...), một số tổ chức tư nhân đề nghị lập nhiều tên vùng nữa.

Ký hiệu nhận diện tiếp theo là tên vùng đăng ký. Ký hiệu nhận diện bổ sung dùng quy định thêm. Thí dụ www.sunlight.com và ftp.sunlight.com thường dùng nhận diện máy phục vụ Web và FTP cho vùng đã cho.

Định tuyến

Định tuyến (Routing) là đặc tính cốt lõi giúp TCP/IP thích ứng với trình ứng dụng mạng diện rộng. Gói dữ liệu định tuyến đến đích thông qua sự kết hợp nguyên tắc kỹ thuật đơn và phức hợp. Nguyên tắc định tuyến thực sự khá đơn giản. Phần cứng định tuyến tinh vi trên Internet Backbone nắm kiểm soát định tuyến phức hợp.

Nếu tổ chức của bạn có nhiều bộ định tuyến đòi hỏi lập cấu hình và duy trì bảng định tuyến, chắc chắn bạn đã huấn luyện một đội ngũ nhân sự quản lý chúng, nên không cần bàn ở đây.

Đối với trạm làm việc Windows 98, chỉ có ba cách định tuyến gói dữ liệu TCP/IP: trực tuyến, thông qua cổng giao tiếp hay Proxy Server (máy phục vụ ủy nhiệm).

Cài đặt và lập cấu hình TCP/IP

Trước khi nối mạng TCP/IP, bạn phải cài đặt và lập cấu hình đúng. Khác với giao thức IPX/SPX và NetBEUI, TCP/IP đòi hỏi lập cấu hình bằng phương pháp thủ công.

Cài đặt

Thủ tục cài đặt bộ thích ứng mạng ở các tài liệu "Nối Mạng Windows 98", "Nối Mạng Windows NT", "Nối Mạng Novell NetWare". Nếu có gì chưa rõ bạn xem lại các tài liệu trên rồi mới qua phần lập cấu hình xác lập TCP/IP cần thiết.

Lập cấu hình

Nếu bạn nối mạng cục bộ thông qua card giao diện mạng, điều quan trọng là bạn lập cấu hình đúng TCP/IP. Còn bạn nối mạng TCP/IP bằng nối kết quay số, các xác lập sẽ tự động lập cấu hình trong quá trình thương lượng PPP mỗi lần bạn nối máy phục vụ truy nhập từ xa; bạn không nên thay đổi xác lập mặc định trên cửa sổ TCP/IP Protocol.

Trình ứng dụng TCP/IP

Ở tài liệu "Nối Mạng Windows 98", "Nối Mạng Windows NT", "Nối Mạng Novell NetWare" đã trình bày về File and Printer sharing with Windows 98. Miễn sao bạn kích hoạt NetBIOS trên TCP/IP và có máy phục vụ WINS hay tệp tin LMHOSTS là bạn thấy tác dụng.

Phần này chú trọng vào ứng dụng TCP/IP như duyệt Web, E-mail, chuyển tệp tin FTP và Telnet.

Duyệt Web

Duyệt Web hẳn là một trong những ứng dụng TCP/IP phổ biến nhất được Windows 98 hỗ trợ. Thật vậy,  nhiều người xem hợp nhất trình duyệt Internet Explorer Web là cải tiến có ý nghĩa nhất trên Windows 98.

E-mail

Tuy Web rất được ưa chuộng, song E-mail vẫn là ứng dụng TCP/IP thông dụng nhất. Ngay cả các tổ chức không kết nối Internet hoặc hạn chế nhân viên sử dụng Internet cũng luôn duy trì luồng E-mail, Microsoft Exchange và Outlook Express trên Windows 98.

FTP

Vào thuở sơ khai của Internet, người ta trao đổi tệp tin bằng FTP. Mặc dù ngày nay FTP vẫn còn, nhưng hầu như người ta chẳng bao giờ cần đến phần mềm máy khách FTP tuyền thống. Thực tế, phiên bản FTP trên Windows 98 vẫn là trình ứng dụng chế độ văn bản DOS vốn điều khiển bằng giao diện dòng lệnh.

FTP thực hiện hai việc: Tải tệp tin từ máy cục bộ lên máy chủ từ xa và tải tệp tin từ máy chủ từ xa xuống máy tính cục bộ. Trình duyệt Internet Explorer cài đặt sẵn hỗ trợ dùng FTP để tải xuống tệp tin từ địa điểm cho phép đăng nhập vô danh. Tuy nhiên, nếu bạn thấy cần tải xuống tệp tin từ máy phục vụ FTP hay tải tệp tin lên máy phục vụ FTP, bạn hãy nhờ đến trình tiện ích FTP.

Hiện nay công dụng phổ biến của FTP là tải trang Web và tệp tin đồ họa lên dịch vụ chủ địa điểm Web từ xa. Nhưng công dụng đó ngày càng mất đi tính cần thiết vì hiện nay hầu hết công cụ Web đều cài sẵn hỗ trợ xuất bản trực tiếp nội dung mới.

Cái khó khi sử dụng FTP là thông tin hiển thị và lệnh thi hành tác vụ đều phụ thuộc nhiều vào máy phục vụ FTP, chứ không phải phần mềm máy khách FTP. Nếu bạn cần FTP, bạn tìm các chỉ dẫn giải thích cách đăng nhập máy phục vụ và lệnh định hướng địa điểm.

Telnet

Telnet là giao thức đơn sơ nối máy chủ và chạy trình ứng dụng chế độ văn bản trên nối kết TCP/IP. Trong Netshell, đó chính là trình mô phỏng Terminal chế độ văn bản. Vì giao diện người dùng đồ họa và chương trình máy khách nhận biết TCP/IP đã trở thành kiểu mẫu nên chương trình ứng dụng Telnet gần như tuyệt tích giang hồ. Những gì còn lại thì đã hợp nhất vào trình ứng dụng khác tinh vi hơn.

Chương trình máy khách Telnet trên Windows là một ứng dụng tuy cơ bản nhưng mang tính chức năng, hỗ trợ mô phỏng Terminal VT-52 và VT-100/ANSI mà thôi.

Như FTP, Telnet là trình ứng dụng TCP/IP mà chẳng thấy người dùng Windows 98 đụng tới. Nếu bạn cần hãy cầu viện đến người quản trị mạng.

Trình tiện ích TCP/IP

Trên Windows 98 có vài trình tiện ích tỏ ra rất hữu ích khi xử lý sự cố cấu hình và chức năng TCP/IP

ARP

Lúc Windows 98 sẵn sàng gởi gói dữ liệu IP đến thiết bị khác trên cùng đoạn TCP/IP (xác định bằng cách so sánh địa chỉ đích với địa chỉ IP và mặt nạ mạng của máy tính), nó sẽ dùng ARP (Address Resolusion Protocol) để quyết định địa chỉ đích Ethernet. Hệ điều hành duy trì một danh sách dịch IP sang Physical Address; bạn có thể xem bằng trình tiện ích ARP.

Ping

Ping có lẽ là trình chẩn đoán đơn giản nhất giành thử nối kết TCP/IP. trình tiện ích Ping đơn thuần gởi một thông điệp ngắn đến địa chỉ IP đã định. Sau khi được nhận tại đích, thông điệp sẽ dội về máy gởi. đa số trình tiện ích Ping gởi vài bó dữ liệu đo thời gian mỗi gói dữ liệu đi một chuyến hành trình từ máy tính đến đích rồi quay về.

Tuy bạn có thể quy định vài thông số như số lần Ping và thời lượng tối đa chờ dội lại nhưng xác lập mặc định thường là đủ rồi. thông tin duy nhất buộc bạn phải quy định là địa chỉ IP đích hay tên máy chủ. Chẳng hạn để Ping www.sunlight.com có địa chỉ IP 192.168.0.1, bạn sẽ gõ một trong hai lệnh sau: Ping www.sunlight.com hay Ping 192.168.0.1.

Tracert

Trình tiện ích Tracert (Trace Route) là một trình ứng dụng chẳng tinh vi hơn Ping bao nhiêu, ngoại trừ nó tiết lộ đường đi từ bạn đến máy tính đích. Ngay cả cú pháp cơ bản cũng giống như Ping - Quy định địa chỉ IP đích hoặc tên máy chủ mà thôi.

Netstat

Trình tiện ích Netstat hiển thị thống kê giao thức và nối kết TCP/IP hiện hành. Muốn hiển thị màn hình trợ giúp Netstat, bạn gõ lệnh kèm theo dấu chấm hỏi: Netstat ?.

Nếu bạn nối mạng cục bộ qua bộ thích ứng Ethernet, Netstat còn hiển thị thống kê số Byte, gói dữ liệu và lỗi gởi nhận. Thi hành Netstat với lệnh sau: Netstat -e.

Windows 98 chỉ dùng nguyên tắc định tuyến đơn giản trên trạm làm việc, dựa vào địa chỉ đích so sánh với mặt nạ mạng và địa chỉ IP máy tính. Tuy đúng là vậy nhưng đó chỉ là một phần câu chuyện. Giả sử máy tính có nhiều card giao diện mạng, bạn phải gán địa chỉ IP cho card giao diện mạng và windows phải biết gói dữ liệu nào định tuyến qua bộ thích ứng nào. Muốn  biết bảng quy tắc định tuyến, bạn chạy Netstat với thông số -r.

Net Diag

Trên Windows 98 còn có cả trình chẩn đoán Net Diag. Net Diag đòi hỏi bạn nắm quyền kiểm soát ít nhất hai máy tính trên mạng - một đóng vai trò là máy phục vụ chẩn đoán và một là máy khách.

Trong lần đầu bạn chạy chương trình, Net Diag hỏi có chương trình Microsoft network Diagnostic chạy trên máy tính nào khác không. Nếu bạn trả lời No, chương trình sẽ đóng vai là máy phục vụ chẩn đoán và bắt đầu "lắng nghe" máy khác chạy chương trình chẩn đoán trên mạng.

Bạn kết thúc chế độ chẩn đoán và trở về dòng lệnh bằng cách nháy phím spacebar.

Khi bạn chạy chương trình từ máy tính thứ hai khi máy tính thứ nhất đóng vai trò là máy phục vụ chẩn đoán, các máy tính sẽ dò lẫn nhau và hoàn thành loạt thử mà không cần người dùng nhúng tay vào.

Nếu không có vấn đề gì, chương trình sẽ hoàn tất chẩn đoán không chậm trễ rồi quay về dòng lệnh.

WinIPcfg

Trình tiện ích TCP/IP cuối cùng trên tài liệu này là WinIPcfg. Trình tiện ích này là giao diện người dùng đồ họa Windows. WinIPcfg cho bạn xem xác lập TCP/IP hiện hành gồm: địa chỉ IP, mặt nạ mạng con, cổng giao tiếp mặc định, tên máy chủ, máy phục vụ DNS, máy phục vụ DHCP, máy phục vụ WINS và thông tin liên quan.

Nếu bạn nối Internet hay mạng công ty TCP/IP bằng nối kết quay số và chạy WinIPcfg khi không nối, vùng địa chỉ IP sẽ là 0.

Nháy nút More Info xem xác lập cấu hình nâng cao gồm địa chỉ máy phục vụ DNS, DHCP và WINS.

Đối với trường hợp cài nhiều bộ thích ứng mạng (khá phổ biến trên máy nối mạng cục bộ qua card giao diện mạng và trang bị Modem nối Internet, bạn có thể thay đổi hiển thị xác lập hiện hành cho từng bộ thích ứng bằng cách nháy nút mũi tên xuống bên cạnh tên bộ thích ứng rồi chọn mục mong muốn. Nút bên cạnh hộp DNS Server còn cho bạn xoay vùng máy phục vụ DNS đã lập cấu hình theo đúng thứ tự mà Windows 98 tìm chúng để phân giải tên vùng.


hainam4u @ Last updated 21/11/04 22:42
Go to my homepage at http://4u.jcisio.com