Đặc điểm của hệ thống đĩa trên máy phục vụ (Server): tốc độ nhanh, độ bền cao, khả năng lưu trữ lớn hơn gấp nhiều lần so với hệ thống đĩa trên máy trạm (Client). Tóm lại, hệ thống đĩa trên máy phục vụ phải đáp ứng các yêu cầu về tốc độ, độ bền và kích thước lớn. Để giải quyết các vấn đề trên, người ta chọn hai phương pháp sau:
Mua một ổ đĩa có chất lượng thật cao, khả năng lưu trữ lớn. Tất nhiên loại ổ đĩa này có chi phí rất cao, cách tổ chức này được gọi là SLED (Single Large Expensive Drive).
Mua một nhóm các ổ đĩa loại thường, tổ chức lại sao cho chúng đáp ứng được các điều kiện Server đòi hỏi: tốc độ, khả năng lưu trữ, khả năng xử lý lỗi (Fault Tolerance). Phương pháp này được gọi là RAID (Redundant Array of Independent Disks).
RAID được tạo bằng phần cứng hay phần mềm.
Các loại RAID:
0 XOR 0 = 1; 0 XOR 1 = 0; 1 XOR 0 = 1; 1 XOR 1 = 0.
Windows 2000 Server chấp nhận hai loại ổ đĩa lưu trữ:
Hệ thống đĩa cho phép tạo:
Khuyết điểm
Tổ chức theo Volume mà cho phép khởi tạo, nới rộng các Volume dễ dàng.
Thiết bị đĩa vật lý được định theo tên, theo số (Disk 0, 1, 2; CD 0, 1, ...) mà bạn không thể thay đổi và kích thước ổ đĩa vật lý là không thay đổi.
Logical Drive là một Partition hay Volume được tạo trên ổ đĩa vật lý, tên ổ đĩa và kích thước có thể thay đổi được.
Đối với Windows NT, một Logical Drive được gán cho một chữ cái để định ổ đĩa. Như vậy trên một máy có khả năng đặt 26 ổ đĩa khác nhau.
Ưu điểm: dễ dàng gán cho các Partition, mọi thao tác truy xuất thật đơn giản.
Khuyết điểm: Có những lúc cần truy xuất trên 26 đơn vị Partition thì không đủ chữ cái để gán.
Windows 2000 Server cho phép Mount một Partition tới một thư mục trống trên Volume NTFS.
Thí dụ: Mount CD-ROM đến thư mục CD. Ưu điểm:
Các bước Mount một Partition:
Thí dụ Mount CD-ROM thành thư mục CD trên một Partition NTFS.
Khi bạn truy xuất đến thư mục được Mount, số liệu thực tế được truy xuất là số liệu của Volume mà bạn Mount tới thư mục đó.
Các bước Mount:
Để Unmount, bạn chọn Remove.
Khi bạn cài đặt Windows 2000 Server, trình cài đặt sẽ tự động khởi tạo một Primary Partition để cài đặt Windows 2000 Server. Nếu bạn muốn tạo thêm một Partition có khả năng khởi động được hay tạo một Partition riêng để lưu số liệu, thì bạn chọn khởi tạo Primary Partition trên khoảng đĩa chưa được cáp phát (Unallocate Space) trên ổ đĩa vật lý.
Có những trường hợp , người quản trị muốn phân chia một ổ đĩa vật lý lớn thành các ổ đĩa Logic nhỏ hơn.
Thí dụ: một hệ mạng muốn lưu trữ thông tin của các phòng ban trên những ổ đĩa Logic riêng biệt
Đối với trường hợp trên, nên khởi tạo Extended Partition trên phần chưa cấp phát sau đó tạo Logical Drive.
Đối với Extended Partition sau khi khởi tạo xong thì khởi tạo Logical Drive.
Để có thể tạo RAID 0, RAID 1, RAID 5 bạn phải nâng cấp Basic Disk lên Dynamic Disk.
Các bước nâng cấp: nháy phải chuột lên ổ đĩa vật lý chọn Upgrade to Dynamic Disk.
Các bước thực hiện
Đặc điểm:
Với Quotas Management người quản trị mạng quản lý được khoảng đĩa người dùng được phép sử dụng. Đặc điểm của việc quản lý Disk Quota là quản lý trên Volume chứ không quản lý trên từng thư mục và chỉ thực hiện được trên Partition là NTFS.
Các bước thực hiện:
Khoảng đĩa tối thiểu cho một người dùng đăng nhập vào mạng là 500KB.
Cho phép nới rộng khả năng lưu trữ thông tin trên các thiết bị rẻ tiền (dùng băng từ thay vì dùng đĩa cứng).
Các bước sau mô tả cách sử dụng Remote Storage để quản lý khoảng trống trên đĩa cứng:
Hoạt động cơ bản của Remote Storage:
Để khởi tạo thư mục dùng chung (Share Folder) cho một thư mục, chọn My Computer hay Windows Wxplorer. Nháy phải chuột lên thư mục muốn Share chọn Sharing trên trình đơn tắt. Cửa sổ Sharing cho phép thiết đặt một số thông số liên quan tới phần Share.
Có hai Permission liên quan tới tệp tin và thư mục: Share Permission và File and Folder Permission.
Nếu so sánh với đĩa mềm (Floppy) thì Share Permission chính là nút Protect (bảo vệ) của đĩa mềm, cửa ngõ đầu tiên bảo vệ tệp tin, thư mục.
Nếu Share Permission chỉ cho phép đọc tệp tin, thư mục thì người dùng chỉ được phép đọc cho dù thuộc tính của tệp tin, thư mục cho phép ghi.
Nếu Share Permission cho phép ghi lên tệp tin thì sẽ qua bước thứ hai thì mới xét tới thuộc tính của tệp tin, thư mục cho phép ghi hay không.
Định nghĩ các Permission ở mức Share Permission:
Thuộc tính tệp tin, thư mục cho phép bảo vệ tệp tin, thư mục khi truy xuất trực tiếp tới tệp tin, thư mục.
Các Permission của File and Folder Permission:
Các Permission cấp thấp đó được gọi là Low-Level Subpermission hay Atomie Permission.
Một nhóm các Permission cấp thấp cho phép thực hiện một Permission cao hơn và được gọi là Higher-Level Conventional Permission hay Molecular Permission, cũng chính là Permission của file and Permission.
Tranverse Folder chỉ áp dụng cho thư mục, cho phép băng qua một thư mục không được phép truy xuất để tới một thư mục con trong thư mục đó.
Execute File chỉ áp dụng cho tệp tin, cho phép thực hiện chương trình.
List Folder: cho phép đọc tên tệp tin, thư mục trong một thư mục.
Read Data:cho phép đọc nội dung của tệp tin.
Nếu xem tệp tin, thư mục là đối tượng thì các Permission trên cho phép đọc nội dung của đối tượng.
Cho phép đọc thuộc tính và tài nguyên của tệp tin như:
Cho phép đọc những thuộc tính được thêm với ứng dụng.
Thí dụ: Các thuộc tính thêm của tệp tin *.doc
Create File: cho phép tạo tệp tin mới trong thư mục.
Write Data: cho phép ghi số liệu lên tệp tin hiện có.
Đối với thư mục: cho phép khởi tạo tệp tin, thư mục trong một thư mục.
Đối với tệp tin: mặc định thừa hưởng quyền đọc vì để ghi với tệp tin phải mở tệp tin và đọc tệp tin để sửa đổi.
Tranh chấp giữa
Ngoại lệ: đối với những permission liên quan tới cấu trúc thư mục như xóa, đổi tên tệp tin thì Folder Permission thắng.
Share một thư mục nhưng không cho người dùng thấy tên Share.
Các thực hiện giống như Share thông thường ngoại trừ tên Share thêm dấu $ ở cuối.
Trên hệ thống tạo sẵn một số Share tài nguyên để thực hiện công tác quản trị mạng:
Share ẩn thư mục gốc của tất cả các ổ đĩa kể cả CD-ROM dành cho Administrator làm công tác quản trị từ xa.
giành cho quản trị hệ thống, Share thư mục WinNT của hệ thống.
Share máy in.
Share tài nguyên khác, chẳng hạn đêểxem phần Event Log của một máy khác.
dành cho dịch vụ Replication.
giành đáp ứng các yêu cầu đăng nhập của người dùng chẳng hạn như thực hiện Login Script.
Cú pháp: Net use driveletter [F=excerpt]\\server_name\share_name[/F].
Thí dụ: Net use driveletter \\M:\sunlight\documents.
Cú pháp: Net use driveletter \\server_name\share_name password /user: domain_name\user_name.
Thí dụ: bạn đăng nhập vào một domain tên sunlight.com với tên người dùng sunlight và bạn muốn truy nhập tới phần Share có tên documents để trên máy tính có tên server2 của Domain có tên domain2. Trên domain2 có người dùng tên user2. có mật khẩu là abc có quyền truy nhập tới phần Share documents. Vậy lệnh kết nối là: Net use M:\\server 2\documents abc/user: domain2\user2.
Trên Windows NT có dịch vụ được gọi là Directory Replication. Với dịch vụ này cho phép bạn đặt các tệp tin, thư mục ở một nơi và hệ thống tự động tạo bản sao số liệu trên một máy khác.
Windows 2000 Server không còn sử dụng dịch vụ Directory Replication mà thay vào đó là dịch vụ Distributed File System. Ngoài khả năng có thể tạo bản sao, DFS còn có một số đặc điểm khác mà hệ thống Windows NT không có.
Thí dụ: trên hệ mạng có tên Domain sunlight.com. Tổ chức số liệu phòng kinh doanh như sau:
Như vậy, để truy nhập tới các số liệu này, bạn cần tạo các phần Share trên các máy và bạn được các phần Share sau:
Đối với Windows NT, để truy nhập bạn phải kết nối tới từng máy để truy nhập.
Đố với Windows 2000 Server cho phép bạn tạo phần Share chung (thí dụ là kinhdoanh) cho phép chứa các phần Share trên.
Ở góc nhìn của người dùng sẽ thấy trên mạng phần Share chung tên kinhdoanh trong đó chứa các thư mục như theo thí dụ
Người dùng không hề biết vị trí thật sự các thư mục trên lưu ở đâu.
Windows 2000 Server tự động phát hành DFS vào Active Directory. Do đó bảo đảm người dùng trong Domain có thể truy xuất số liệu dễ dàng, do khả năng tạo bản sao qua các Server. Đối với người dùng, nguồn tài nguyên trên mạng là trong suốt, ngay cả lúc các Server chứa số liệu bị sự cố hay cần bảo trì (do DFS có người dùng truy xuất qua bản sao).
Do khả năng nhân bản số liệu. Nếu có trường hợp nhiều người dùng cùng truy xuất và cùng một tệp tin DFS phân bố việc truy xuất qua các Server.
Domain Root phát hành DFS Root to Pology tới Active Directory giúp cho người dùng có thể nhìn thấy được các DFS to Pology trên tất cả các Server trong Domain.
Offline File lưu trữ các tệp tin thường truy nhập nhất vào một thư mục trên ổ đĩa địa phương và cho phép người dùng truy xuất vào thư mục đó thay vì phải truy xuất trực tiếp tới mạng.
Ưu điểm của Offline File trên Windows 2000 Server:
Khi sự kết nối bị gián đoạn, máy trạm chuyển qua chế độ Offline, mọi thao tác truy nhập tệp tin trên mạng đều được hướng tới phần đã lưu trên đĩa. và mọi Permission để truy nhập tệp tin trên mạng vẫn giữ nguyên như lúc sự kết nối không bị gián đoạn. Sau khi sự kết nối được phục hồi sự thay đổi trong phần Cache sẽ được cập nhật vào mạng.
Các kiểu Cache cho thư mục được Share:
Tạo sự đồng nhất số liệu giữa trạm và mạng sau khi hoạt động ở chế độ Offline được kết nối trở lại hay theo một quy định trước của người quản trị.
Thí dụ: khi cài đặt chế độ màn hình với tốc độ làm tươi mà Monitor không đáp ứng được, dẫn đến bạn không thể thấy được gì để trả lại chế độ màn hình hợp lý. Advanced Option cho bạn nhiều phương pháp để loại bỏ hay sửa chữa một số hư hỏng của Windows 2000 Server. Để mở được trình đơn này, bạn nháy và giữ phím F8 khi máy khởi động. Khi đó bạn sẽ nhận được một danh sách như sau:
Safe Mode khởi động Windows 2000 với các trình điều khiển và dịch vụ vừa đủ để khởi động, không nạp ổ đĩa mạng và các dịch vụ liên quan đến mạng sẽ bị đổi để khởi động. Safe Mode được sử dụng để loại bỏ các dịch vụ liên quan đến mạng.
Là Safe Mode có kèm theo dịch vụ mạng sử dụng. Chế độ này nếu bạn biết chắc các trình điều khiển mạng không gây sự cố mạng.
Thay thế trình Shell Explorer.exe bằng trình cmd.exe cho phép người dùng thao tác trên máy từ dấu nhắc lệnh. Bạn có thể làm mọi việc từ dấu nhắc lệnh hay từ Task Manager.
Sử dụng với máy Stand-Alone bị trục trặc trình Explorer.
Mỗi lần khởi động và đăng nhập thành công, hệ thống ghi lại thông tin cấu hình của máy vào Registry HKLM\System\Curent controlset.
Đối với Windows NT, Windows NT lưu 4 bản thông tin cấu hình:
\controlset002
\Current Controlset
\Clone
Trong đó: \Controlset002 là Last Know Good Configuration, Current Controlset là con trỏ chỉ tới các bộ Control và \Clone là bản sao của Current Controlset.
Đối với Windows 2000 Server cũng lưu các bộ thông tin cấu hình được đánh số liên tục. Windows 2000 Server lưu trữ bộ Current Controlset mà là con trỏ chỉ tới bộ được đánh số khác. Bộ đánh số khác coi như là bộ Last Know Good Configuration.
Với chế độ Last Know Good Configuration cho phép Windows khởi động với cấu hình đã khởi động thành công cuối cùng trước khi máy bị sự cố.
Một số trường hợp không thể sử dụng Last Know Good Configuration:
Hai chế độ đồ họa được tạo trên Windows
Bạn chọn Enable Mode, Windows sẽ chuyển sang Vanilla VGA Mode để khởi động máy tính.
Tùy chỉnh này được sử dụng khi việc cài đặt trình điều khiển màn hình gặp sự cố và cần trả lại thông số cũ.
Máy khởi động bình thường ngoại trừ nó tạo thêm tệp tin NTBTLog.txt và lưu ở thư mục gốc.
Tệp tin NTBTLog.txt ghi lại tất cả các trình điều khiển được nạp vào hệ thống và các trình điều khiển không được nạp vào hệ thống.
Được sử dụng kèm theo khi Restore Active Directory từ Windows Backup.
Debugging Mode sẽ gởi tín hiệu Debug từ máy Windows 2000 tới máy khác qua cổng Serial. Sử dụng chế độ này đối với trường hợp muốn kiểm soát máy Windows 2000 qua máy khác.
Đối với một số trường hợp sự cố không thể khắc phục được bằng Advanced Option. Bạn có thể sử dụng hai công cụ khác
Recovery Console được cài đặt từ CD-ROM Windows 2000 Server.
Nháy nút Start trên thanh tác vụ rồi chọn Run. Bạn nhập đường dẫn E:\i386\WinNT32\cmdcons rồi nháy OK.
Khi đã được cài đặt, Recovery Console sẽ được đặt ở thư mục Sartup
Đối với máy tính bị sự cố nhưng chưa được cài đặt Recovery Console, khi đó bạn chạy trình cài đặt Windows 2000 Server nhưng chọn R (Repair) sau đó chọn C (Recovery Console).
Khởi tạo đĩa ERD theo hai bước sau:
Khi đó Windows 2000 Server sẽ sao chép các tệp tin sau đến đĩa mềm:
Chọn Repair it.
Nếu không có đĩa Emergency Repair Disk, tiến trình sửa chữa sẽ thử tìm bộ Windows 2000 Server trên đĩa cứng.