Những năm 1100 sau Công Nguyên la bàn được sử dụng do những hoa tiêu người Trung Hoa và Yý. Họ độc lập khám phá rằng kim nam châm trồi lên tự do luôn luôn chỉ hướng bắc.
Năm 1600, một bác sĩ người Anh là William Gilbert (1544-1603) trong cuốn sách của ông là "De Magnete", xác nhận rằng điểm trung tâm của trái đất là lực nam châm khổng lồ có các vùng cực ở 2 điểm bắc và nam.
Những năm 1620 phương pháp khoa học hiện đại được phát triển do nhà triết gia người Anh Francis Bacon (1561-1626). Ông chủ trương thử nghiệm mà nó là điều căn bản nhất cho kiến thức.
Năm 1638 khoa học về động lực học được sáng lập do nhà vật lý người Yý Galileo Galilei (1564-1642) trong cuốn sách: "Dialogue concerning two new sciences". Ông nghiên cứu sức mạnh gây ra gia tốc như thế nào và đã khám phá tính chất của quả lắc.
Năm 1755 chất Carbon dioxide được khám phá do nhà hóa học Scotland Joseph Black (1728-1799), gọi nó là "không khí bất động".
Năm 1765 động cơ hơi nước có ảnh hưởng hiệu quả đầu tiên được thiết kế do kỹ sư Scotland và James Watt (1736-1819).
Năm 1766 Hydrogen được khám phá do nhà hóa học người Anh Henry Cavendish (1731-1810) gọi nói là "không khí dễ cháy".
Năm 1779, Oxygen được đặt tên do nhà hóa học người Pháp là Antoine Lavoisier (1743 - 94), người chứng minh vai trò của nó trong sự đốt cháy. Điều này cũng chỉ ra không khí được pha trộn các loại khí, và còn nước là hợp chất của oxygen và hydrogen.
Năm 1799 pin được phát minh do nhà hóa học người Yý Alessandro Volta (1745-1827) sử dụng những miếng kim loại tách ra bởi dung dịch muối.
Những năm 1830 các nhà hóa học Đức tập trung về Carbon là nền tăng của hóa học hữu cơ của vật sống. Carbon lấy từ nhiều thứ từ than đá tới kim cương.
Năm 1831 nhà khoa học người Anh Michael Faraday (1791-1867) sử dụng hiện tượng từ để tạo ra điện, quá trình được gọi là sự cảm ứng điện từ. Một người Mỹ Joseph Henry (1797-1878) đã có khám phá giống như thế nhưng độc lập với Faraday.
Năm 1836 chất xúc tác được khám phá ra do nhà khoa học Thụy Điển Jôns Berzelius (1779-1848). Những chất xúc tác tăng tốc độ những phản ứng hóa học không tự chúng được sử dụng trong những phản ứng này.
Năm 1839 những quy trình nghệ thuật chụp ảnh thực tiễn đã được phát minh một cách độc lập nhau của bởi một người Anh William Fox Talbot (1800-1877) và người Pháp Louis Daguerre (1789-1851).
Năm 1888 sự tồn tại của sóng radio đã được chứng minh do nhà vật lý học người Đức Heinrich Hertz (1857 - 94). Động cơ motor cảm ứng được nhà vật lý người Croatia phát minh: Nikolai Tesla (1856-1943).
Năm 1894 thông tin liên lạc vô tuyến được phát minh do một người Yý hai mươi tuổi, Guglielmo Marconi (1874-1937).
Năm 1895 tia X được khám phá do nhà vật lý người Đức Wilhelm Roentgen (1845-1925).
Năm 1896 hiệu quả của chất phóng xạ được khám phá do nhà vật lý người Pháp Antoine - Henri Becquerel (1852-1908).
Năm 1897 nhà vật lý người Anh khám phá hạt electron là Joseph John Thompson (1856-1940).
Năm 1898 những thành phần của chất radium và polonium được tách ra do nhà hóa học gốc Balan Marie Curie (1867-1934) và chồng bà, người Pháp, ông Pierre Curie (1859-1906). Bà Marie Curie gọi sự phát ra ánh sáng mạnh mẽ của vật tỏa ra là "tính chất phóng xạ".
Năm 1915 tinh thể tia X, phương pháp tìm ra cấu trúc của tinh thể được phát minh do nhà vật lý học cha William H. Bragg (1862-1942) và con là Lsawrence Bragg (1890-1971).
Năm 1919 nhà vật lý học gốc New Zealand Ernest Rutherford (1871-1937) thay đổi 1 thành phần này sang thành phần khác. Ông thay đổi hạt nhân nitrogen sang hạt nhân oxygen.
Năm 1931 Neutron (hạt trong hạt nhân) được khám phá do nhà vật lý người Anh James Chadwick (1891-1974).
Năm 1932 nhà vật lý người Anh đã tạo ra máy gia tốc hạt hạ nguyên tử (J. Cockcroft 1897-1967) và Ernest Walton (sinh năm 1903) hạt positron, hạt của vật chất, do nhà vật lý người Mỹ Carl David Anderson (sinh năm 1905) khám phá ra.
Năm 1935 nhà hóa học người Mỹ Wllace H. Carothers (1896-1937) phát triển chất nylông.
Năm 1960 nhà vật lý người Mỹ Theodore Maiman (sinh năm 1927) tạo ra tia laser đầu tiên, dựa trên ý tưởng được phát triển do nhà vật lý người Mỹ Gordon Gould vào năm 1957.
Năm 1964 sự tồn tại của những vi lượng những phần hợp thành của neutrons và protons, được đề nghị do nhà vật lý người Mỹ Murray Gell-Mann (sinh năm 1929).
Những năm 1980 lý thuyết xáo trộn do những nhà toán học Mỹ phát triển, dựa trên điều không thể đoán trước được của tính chất thiên nhiên. Lý thuyết xáo trộn được sử dụng để cố gắng dự đoán những hệ thống phức tạp.
Năm 1983 sự tồn tại của 2 hạt hạ nguyên tử quan trọng (W, Zo) được xác nhận tại phòng thí nghiệm CERN ở Thụy Sĩ.
Năm 1986 chất siêu dẫn, chất liệu với điện trở cực thấp cho điện được phát triển.
Năm 1990 vệ tinh nhân tạo COBE (Cosmic Background Explorer) khám phá vật tỏa sáng trong bối cảnh gợn sóng chứng tỏ về thuyết Big Bang về nguồn gốc của vũ trụ.
hainam4u @ Last updated 21/11/04 22:42 Go to my homepage at http://4u.jcisio.com