Cưới - ngày vui lớn nhất đối với một con người đã từ lâu mất dần ý nghĩa thậm chí trở thành ngày vất vả mệt nhọc, lo âu và có khi còn cả buồn phiền, tủi cực. Với người ngoài cuộc - đến dự - thì ý nghĩa chia vui không còn nhiều, đã thay bằng sự trả nợ hoặc nhiều mối ràng buộc "tế nhị" khác mà có muốn cũng không thể thoát ra. Tôi xin không trở lại việc phê phán những hủ tục cùng tấn bi hài kịch từng diễn ra ở khắp nơi, từ thành thị đến nông thôn, từ Nam chí Bắc và ở mọi tầng lớp xã hội.
Trước hết, tôi thấy rằng đã đến lúc, nếu không nói là muộn, cần dừng lại việc phê phán tình trạng cưới hỏi lãng phí, tốn kém vì ai cũng đã thấy rõ, rất thấm thía mọi nỗi phiền hà, từng đã là nạn nhân (hoặc tổ chức cho người nhà hoặc với tư cách người được mời đến dự). Cần tìm ra giải pháp, có thể là một vài hình thức nào đó áp dụng cho tất cả mọi đám cưới. Và tôi cho rằng vấn đề không còn là tuyên truyền, vận động, cần thế nọ, nên thế kia nữa, mà phải có biện pháp hữu hiệu chấm dứt tình trạng hiện nay. Nhớ lại quá khứ trong kháng chiến chống Pháp những đám cưới vùng tự do thật là đẹp, vui, nhiều ý nghĩa, tuy sơ sài đạm bạc, có khi chỉ là một buổi "tuyên bố" của tổ chức với nước chè xanh, trầu cau, đến thuốc lá nhiều đám cũng không sẵn. Rồi hoà bình lập lại, nhà nước ta tiếp tục vận động cưới theo "đời sống mới". Ngày ấy ở nông thôn còn bày vẽ cỗ bàn, chứ ở thành thị chỉ là tiệc trà gồm chè, thuốc, kẹo trầu cau. Ai là cán bộ, nhân viên nhà nước mà giở giói mâm bát sẽ thấy rất ngượng với cơ quan, cảm giác như vi phạm một điều gì đó. Chưa cơ quan nào phê bình, kiểm điểm cán bộ tổ chức những đám cưới to nhưng ngày ấy người ta rất tự giác. Rồi những năm tháng nước sôi lửa bỏng chống Mỹ thì thôi khỏi phải nói, ai cũng ý thức mọi việc cho gọn nhẹ nhất để còn đương đầu với cuộc chiến tranh khốc liệt từng phút, từng giây.
Hủ tục được phục hồi từ sau năm 1975, khi đất nước được hoà bình, thống nhất. Tình hình này càng ngày càng gia tăng. Sự lãng phí quá mức đến chướng tai gai mắt, không thể chấp nhận, luôn phát triển theo đồ thị đi lên, đến hôm nay đang ở đỉnh cao. Cần thấy rằng, theo sát đồ thị ấy là rất nhiều đợt nhà nước ta kêu gọi tiết kiệm, chống đình đám, lãng phí. Báo chí và các cơ quan thông tin đại chúng vẫn thường xuyên phê phán và hô hào chấn chỉnh. Rất nhiều hội thảo về tổ chức cưới từng diễn ra với nhiều tham luận nhưng chỉ cùng chung một âm hưởng: phê phán. Thế rồi, tình hình đâu có khả quan. Đã như mộ sự thách thức: càng tuyên truyền, càng chống, mức độ lãng phí với qui mô "siêu sang" của các đám cưới càng lan tràn. Không ít những vị chức sắc lớn có trách nhiệm giáo dục chống lãng phí, nhưng khi tổ chức cưới cho con mình thì lại to gấp bội thiên hạ.
Thực ra, ngay cả các "khổ chủ" cũng không muốn tốn kém, vất vả phiền nhiễu (trừ những người coi việc cưới như một thứ kinh doanh trục lợi thu bổng lộc do có một vị trí nào đó trong xã hội). Cái khó khăn lớn nhất không vượt qua được và chẳng ai dám vượt qua là đời chỉ có một lần, đừng để người ta chê cười. Người viết bài này mới tổ chức cưới cho đứa con đầu. Bốn người làm cha mẹ đã ấn định ngày cưới sao cho thuận tiện mọi bề, nhưng đùng một cái, hai "đương sự" tuyên bố xin đổi ngày vì chúng lên tận Bắc Giang mới tìm được một "thày" xem ngày "thày" phán phải ngày X giờ Y mới cưới được. Thế là hai bên cha mẹ đành phải nhường quyền ấn định ngày cưới của con mình cho một ông "thày" vơ váo tận đâu đâu. Thật là mỉa mai và hài hước. Nhưng ai dám cưỡng lại ý các con chỉ vì: không nghe theo lời đề đạt của chúng, lỡ chúng sống bất hạnh, oán cha mẹ thì sao. Đã có rất nhiều cuộc tuyên truyền vận động, nhưng đều vô hiệu. Vậy nên cần cứng rắn hơn tức là bắt buộc các đám cưới phải tuân thủ một số điều và cấm không được một số điều. Tôi xin được gợi ý như sau: từ thành thị cho đến nông thôn, cần thống nhất một hình thức mới: tại nơi đăng ký kết hôn (Uỷ ban Nhân dân đơn vị cấp đăng ký) tổ chức luôn đám cưới. Nơi đăng ký làm luôn dịch vụ này, lo cho đương sự từ A đến Z với một kinh phí trọn gói. Hình thức chỉ là: trang trí căn phòng đẹp có hoa, nước chè, trầu cau (không thuốc lá). Dự lễ kết hôn là chính quyền địa phương, đại diện hai cơ quan (nếu có), đại diện hai bên gia đình. Một vị thay mặt chính quyền địa phương tuyên bố lễ thành hôn và trao tờ hôn thú. Cần tổ chức trang trọng, lịch sự đàng hoàng. Nhưng chỉ như vậy. Tất cả mọi thủ tục chỉ diễn ra tối đa trong vòng 30 phút. Kinh phí cho việc này cùng lắm chỉ là vài trăm nghìn. Nơi tổ chức phải công khai giá tiền từng khoản công việc từng vật dụng và chút bồi dưỡng cho những người lo liệu. Không được kiếm lời trong việc này. Cần quan niệm đây là trách nhiệm của chính quyền địa phương đối với những cặp thành hôn. Điều đó thể hiện tính ưu việt, văn minh của chế độ xã hội ta. Đương sự có thể báo hỷ tới tất cả mọi đối tượng, mà không cần mời dự cưới, để họ khỏi phải quà cáp, tặng phẩm như kiểu hiện nay. Trong giấy báo hỷ nói rõ lễ thành hôn diễn ra tại đâu, ngày, giờ nào và cho họ biết địa chỉ cặp vợ chồng sẽ ở sau ngày cưới, để tới chúc mừng, có thể mang theo hoa hoặc một vài tặng vật tinh thần nào đấy (tranh ảnh, một vài đồ dùng trang trí trong gia đình v.v..). Nên cấm hẳn việc bày biện cỗ bàn linh đình. Chỉ nghiêm cấm việc này mới chấm dứt được tình trạng người đến dự cứ phải lo mừng cưới bằng tiền. Có người sẽ đặt vấn đề chỉ cần đến dự tiệc ngọt, người ta cũng đã trao phong bì, chứ đâu phải tiệc mặn. Xin thưa: nếu chỉ gửi thiếp báo hỷ thay cho thiếp mời (sẽ bãi bỏ hình thức thiếp mời) thì người ta có thể đến, có thể không, có thể gọi điện thoại đến chúc mừng. Không mời mà ai tự đến, việc tặng một bó hoa, một bức tranh nhẹ nhàng, giản tiện là hoàn toàn có thể chấp nhận được. Khi ấy, một chiếc phong bì đựng tiền sẽ trở thành lố, vì đã cưới theo hình thức nói trên, lại cấm tiệc tùng, thì nào có tốn kém gì mà mọi người phải đóng góp. Rồi dần sẽ quen, sẽ thành lệ, rất dễ chấp nhận.
Nhà nước cần ban bố những quy định thật chi tiết. Trong bản quy định tổ chức cưới, các điều càng cụ thể càng tốt, tuyệt đối không có những lời lẽ dạng "tuỳ từng trường hợp..." hoặc "có thể linh động một số nguyên tắc...". Đó chính là kẽ hở để người ta "vận dụng", tiếp tục trở lại nếp cũ, rốt cuộc mọi việc sẽ lại đâu vào đấy. Có thể nghĩ tới hai khu vực cho thành thị và nông thôn với một số điều khoản khác nhau, nhưng phải quy định rõ. Đặc biệt, những điều cấm phải rất chặt chẽ về chữ nghĩa. Nên coi văn bản quy định này như một thứ luật. Ai vi phạm sẽ bị xử lý tuỳ theo các mức độ nặng nhẹ, cố ý, vô tình. Chỉ như vậy mới mong chấm dứt được hiện trạng. Còn không thì sẽ chỉ là bất khả kháng. Chẳng nên tiếp diễn mãi những việc đã làm rất nhiều mà không có hiệu quả. Vấn đề là ở quan niệm. Chỉ lo rằng chính trong chúng ta - những người quyết tâm thay đổi tình hình - cũng có ý nghĩ: chuyện cưới là chuyện hỷ, luật làm chi cho căng cứng, mất vui. Nếu vậy có lẽ xin miễn bàn tiếp ở đây.
Giống như trong bóng đá, đã hàng trăm năm nay người ta kêu gọi, hô hào: đừng đá thô bạo, hãy văn minh chớ vào bóng phía sau nguy hiểm. Nhưng, các cầu thủ vẫn để ngoài tai mọi lời tuyên truyền dường như lại kịch thích họ đá "rắn" hơn. Cho nên đến trước Worìd Cup '98, người ta đã ban hành luật "cấm vào bóng phía sau, ai vi phạm sẽ bị thẻ đỏ và đuổi ra sân". Tình hình khác hẳn. Cầu thủ nào cũng sợ. Tuy vẫn còn, song rất ít.