Cướp được quyền thống trị cả nước, Gia Long đóng đô ở Huế với lý do cho rằng dân tình Thăng Long kiêu bạc, ở Phú Xuân nhân số đông đúc, phong thục thuần lương, các thánh (tức chúa Nguyễn) đã đóng đô ở đây; Phú Xuân ở giữa nước, con đường đi về triều cống khắp nước cân nhau; hình thế địa lý phù hợp với quan niệm phong thủy, có núi trước làm án, có sông bao quanh, có đảo ở hai bên tả hữu v.v...; địa thế quân sự vững vàng, có biển trước núi sau, thuận cho cả lúc bình thời cũng như khi hữu sự.
Kinh thành Huế được Gia Long cho xây đắp từ năm đầu lên ngôi (1802). Năm 1805 cho xây dựng vòng thành lớn ngoài cùng. Công việc xây dựng được tiến hành liên tục suốt mấy đời vua từ Gia Long qua Minh Mạng trong gần 40 năm trời.
Thành Huế được xây dựng gồm ba vòng thành bao bọc lẫn nhau. Riêng vòng thành ngoài, phần kiến trúc quân sự quan trọng nhất, được xây theo kiểu thành Vôbăng, với một đồ án hình gần vuông, mỗi cạnh chừng 2.235 mét (chu vi gần 9.000 mét).
Ngoài bốn pháo đài góc ra, mỗi mặt tường thành có xây năm pháo đài nhô ra ngoài. Những pháo đài có lớn, có nhỏ và đều có trổ các pháo nhãn để bắn. Căn cứ tổng số pháo nhãn, ta có thể biết rằng cần phải có 386 khẩu đại bác mới đủ.
Nếu kể thêm 18 pháo nhãn ở quãng cửa vào và cửa ra của con kênh Ngự Hà chảy qua kinh thành thì số pháo trang bị cho việc phòng thủ tòa thành ngoài này lên tới 404 khẩu.
Tường thành xây cao 6,60 mét, dày trung bình 21 mét và được xây ốp toàn bộ bằng gạch.
Thành mở tất cả 13 cửa. Có 10 cửa xây lầu cửa bên trên (4 cửa mặt Tiền, 2 cửa mặt Tả, 2 cửa mặt Hữu và 2 cửa mặt Hậu). Còn có 3 cửa (một cửa thông sang thành Mang Cá bên cạnh, một cửa Đông thành thủy quan và một cửa Tây thành thủy quan, nơi con kênh Ngự Hà chảy vào và chảy ra). Đài Cột Cờ cũng là một công trình rất lớn, cao, đồng thời cũng lại là một đài quan sát, một trận địa pháo gồm 23 khẩu. Công trình này xây ba tầng, cao 17,50 mét. Trên cùng, chính giữa là cột cờ bằng gỗ cao 29,52 mét.
Phía ngoài tường thành là hệ thống công sự chướng ngại gần sông Hộ Thành, hào ngoài. Sông Hộ Thành là con sông đào bao bọc ba mặt trái, phải và sau thành rồi đổ ra sông Hương rộng tới 400 mét, chảy ngang mặt trước thành. Sông Hộ Thành rộng không đều, nơi hẹp nhất là 13,50 mét, nơi rộng nhất là 66 mét. Sông Hộ Thành rõ ràng là một chướng ngại rất lớn và rất bảo đảm với một chu vi ước chừng 11 km(*).
Qua sông Hộ Thành, người ta còn phải vượt một đường hào ngoài (glacis, có người gọi là thành giai), rộng không đều nhau (nơi rộng nhất 160 mét, nơi hẹp nhất 100 mét).
Một bức tường cao khoảng 1,30 mét chạy song song với mép ngoài của hào là một lần lũy vây bọc quanh thành để cho lính có thể đứng bắn chống trả kẻ thù khi đã vượt qua được sông Hộ Thành.
Hào ngoài là vành đai chướng ngại thứ hai rộng từ 40 đến 60 mét, sâu 4 mét, mực nước sâu trung bình là 1,50 mét. Bờ hào được xây kè đá chống sụt lở.
Vượt được hào ngoài rồi, kẻ thù còn phải vượt một đoạn đường chân thành (berme) rộng chừng 8,50 mét mới tới được chân tường thành để tính chuyện trèo qua bức tường rất kiên cố được bố trí tới 404 khẩu đại bác.
Một điều riêng có ở thành Huế là một thành nhỏ mang tên Trấn Bình đài, tên thường gọi là Mang Cá, được xây ngay ở góc đông bắc của kinh thành, có cửa thông với kinh thành. Thành Mang Cá xây hình lục giác, chu vi gần 1.000 mét, tường cao từ 5 đến 5,80 mét. Cũng có đường chân thành, hào ngoài, đường ngoài hào, sông Hộ Thành v.v..., một hệ thống vành đai chướng ngại bảo vệ như ở kinh thành.
Mang Cá vốn làm chức năng kiểm soát thương cảng quan trọng Bao Vinh, một khúc ngoặt của sông Hương, thời Gia Long. Thực chất thì Mang Cá chỉ là một pháo đài lớn, bên trong không có đền đài, cung điện hay một công trình văn hóa nào.
Chúng tôi chỉ chọn lựa vài điểm cốt chứng minh rằng triều Nguyễn đã bỏ công xây dựng cho vương triều mình một kinh thành vững chắc, to lớn vượt tất cả mọi triều đại trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam(*).