Lý là một loại dân ca đặc sắc của Việt Nam. Lý có ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam của Việt Nam, nhưng có lẽ lý phát triển mạnh nhất ở Nam bộ.
Lời ca rất mộc mạc, chỉ hai câu thơ lục bát trong bài Lý chim khuyên như:
Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi
mà được hát thành:
Miền Trung có thể nói là trung tâm của các điệu lý và họ Lý có nghĩa là hát của giai cấp dân quê (do chữ lý làng mà ra), so với Ca Huế thuộc giai cấp vua chúa, quan liêu trí thức. Tất cả điệu lý được thoát thai từ các bài hát chèo, ca Huế, hát tuồng, và hát cải lương.
Ðiệu lý giao duyên bốn mùa hay lý vọng phu được hát theo điệu Nam ai Trung chuyển sang Ai Oán Nam khi xuống tới miền Nam và trở thành lý bốn mùa hay lý ru con. Thể thơ được dùng là thất ngôn:
Thí dụ như:
Một bước đường trời biển chia hai
Hỡi nàng nàng ơi!
Anh dặn một lời xưa nhớ đừng quên.
Từ đó các nhà nho mới đem vào Ca Huế và đổi tên lại thành lý giao duyên 12 tháng như:
Ai nấy vui mưng thiếp bặt mắt trông
Qua tháng hai bông hoa nhài ướm nở
Thiếp luống trông chàng vừa trở gió đông,
v.v...
Hát giao duyên với loại thơ thất ngôn cũng được dùng trong hát chèo. Ðến khi bài Lý giao duyên được sử dụng với thể thơ lục bát qua hai câu thơ:
Ðể cho con sáo sổ lồng bay xa.
Thì lại được đổi lại là Lý con sáo. Ðiệu Lý con sáo rất được quãng bá ở ba miền Bắc, Trung, Nam. Mỗi miền với thang âm đặc thù đã tạo ra ba điệu lý khác nhau: Lý con sáo Bắc, Lý con sáo Trung, và Lý con sáo Nam. Ngoài ra, chúng ta còn biết thêm một điệu Lý con sáo nữa là Lý con sáo Quảng.
Ở Thừa Thiên, khi hát bài lý con sáo, thay vì hát đoạn "ơi người ơi", lại hát "tang tình tang". Bài lý con sáo được gọi là Lý tình tang,và khi hát bài 10 thương thì được đổi thành lý mười thương.
Các điệu lý đều dựa trên thể thơ lục bát trên âm giai tứ cung nhu bài lý ba cô, lý lượn, hoặc âm giai ngũ cung như bài lý bắt bướm hay lý cây đa.
Nghệ thuật sử dụng thể thơ lục bát của người Việt rất tài tình. Qua hai bài Lý con sáo Trung và Nam, chúng ta nhận thấy dân tộc Việt Nam đưa vào những tiếng đệm bằng cách lập lại những chữ trong câu chẳng hạn nhu "í a, ố tang tình tang", vv mà làm cho nhạc điệu trở nên phong phú vô cùng.
Dân ca do đó đi sâu vào lòng dân và đôi khi còn ảnh hương rất mạnh vào nhạc thính phòng Ca Huế hay Ðàn Tài Tử miền Nam hoặc vào các điệu hát Chèo, Cải lương.
Hò, lý, hát hội với Trống quân, Quan Họ, Hát phường vải, Hát ghẹo, Hát xoan, cò lả,vv... rất gần với chúng ta qua lời ca đơn giản, diễn đạt tất cả hình ảnh sống động của xã hội nông thôn Việt Nam và mỗi người hát là một nhà thơ.
Lụy lưu lưu lụy dạ dường kim châm
(Lý thương nhau)
Hoặc điệu "lí năm canh" diễn tả nỗi lòng nhớ nhưng chờ đợi, âu lo:
Chờ trăng lặn chờ ba, ba tàn.
Những bài hát nói đến tình vợ chồng thường đượm vẻ buồn sâu xa thầm kín khác với những bài hát khắc họa tình yêu trai gái hồn nhiên như Lí xăm xăn, Lí cây bông.
Bông lê bông lựu đố nàng mấy bông
Những bài Lý ở miền Nam có đặc điểm là ngắn gọn, mỗi bài chỉ có một lời, giai điệu có những quãng nhảy xa tạo nên sắc thái sâu lắng trầm mặc hơn so với các miền khác (nhất là ở những nốt bán âm giàu tính chất thương cảm). Phần lớn những bài hát đều mang phong cách ca xướng, Lý chiều chiều là mựt trong những bài hát giao duyên tự sự hay nhất trong kho tàng dân ca miền Nam với những câu hát mộc mạc đằm thắm.
Thấy cô gánh nước tưới cây ngô đồng
Xui trong lòng tui thương
Thương cô tưới cây ngô đồng
Và ai mà không chạnh lòng xao xuyến khi nghe những câu hát thắm đượm ân tình của Lý vọng phu. Âm điệu từ khúc hát vang chứa đựng bao nhiên uẩn khúc của người vợ trông chồng suốt những năm tháng biệt ly cách trở.
Nỗi đau chất chứa đến nỗi bật ra câu hát:
Cùng lới Lí vọng phu làn điệu Lí tàng tít cũng xuất hiện nhiều trên sân khấu tuồng và dân ca kịch bài chòi của những tỉnh miền Trung. Có người cho rằng hai điệu lí ấy được hình thành từ sân khấu truyền thống khu V (Lập luận này thiếu sức thuyết phục vì sân khấu thuộc loại hình nghệ thuật sinh sau đẻ muộn). Có thể những âm điệu này sẵn trong dân gian và sau đó được các tác giả đưa vào sân khấu với những biến dạng cần thiết để phù hợp với nội dung kịch bản, chẳng hạn:
Tuy vậy phần gốc của câu hát vẫn được giữ nguyên vẹn:
Chính vì nắm được thanh âm đặc trưng của làn điệu này mà nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đã vận dụng một cách tài tình khi sáng tác ca khúc nổi tiếng "Quảng Nam yêu thương". Bên cạnh những điệu lí ngân nga như khúc tâm tình của người dân miền Trung còn có nhiều điệu lí âm điệu sinh động, tiết tấu sôi nổi, khắc họa rõ nét những sinh hoạt đời thường. Lí đi chợ dí dỏm, hồn nhiên miêu tả cảnh bán mua:
Trước thời bán vặt, sau là mua ăn.
Hoặc nhịp điệu dập dồn trong Lí thương:
Thấy đôi Chiền Chiện ăn xoài chín cây
Lí ngựa ô có mặt trên khắp ba miền Bắc - Trung - Nam, nhưng tại Quảng Nam làn điệu này có những nét riêng, kín đáo, sâu sắc.
Yên tra khớp bạc đưa chàng hồi hương.
Mỗi làn điệu của lí có phong vị độc đáo, có dáng dấp riêng, rất súc tích và khá uyển chuyển trong sự thể hiện nội dung. Từ các câu ca dao quen thuộc, ông cha ta đã phá vỡ tiết điệu sẵn có của thể thơ sáu tám bằng cách xử lý tài tình hệ thống tiếng đệm, tiếng láy đưa hơi với phong cách điệp từ í a, tình tang, là, mà, trông... để ngâm ngợi thêm tô đậm thêm những chỗ nhấn giàu màu sắc cho làn điệu và làm đa dạng thêm cảm xúc của người hát.
Chúng ta cũng có thể nhận thấy càng vào phía Nam, các làn điệu dân ca càng có xu hướng bổ sung thêm dạng thang âm có bán cung. Đó là điệu thức oán, dần dà trở thành dạng đặc thù trong ca nhạc truyền thống các tỉnh phía Nam. Các điệu lí cũng vận dụng hầu hết dạng thang âm điệu thức dân tộc, chính vì thế mỗi làn điệu đều có sức hấp dẫn riêng của nó để có thể lưu truyền từ đời này sang đời khác, dù có thay đổi chút ít nhưng vẫn giữ được trực âm chính trong hệ thống ngũ cung nguyên bản, nhờ vậy người nghe khó nhầm lẫn giữa điệu lí của vùng này với vùng khác. Như mạch nước ngầm, những điệu hát lí có sức lan tỏa rộng khắp trong nhân dân và trở thành những viên ngọc quý trong kho tàng dân ca Việt Nam.
Miền Nam có rất nhiều điệu hò và lý. Những bài nào không thuộc vào hò thì là lý. Có nhiều điệu Lý: Lý chim khuyên, Lý bông lựu, Lý chuồn chuồn, Lý cây chanh, Lý chè hương, Lý bỏ bìa, Lý con khỉ đột, Lý ngựa ô, Lý quạ kêu… Đó là những điệu hát dân gian từ vùng Bình Trị Thiên vào tới miền Nam, vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hơn 200 bài Lý đã được thu thập ở miền Nam. Nhạc điệu dựa trên thang âm ngũ cung miền Nam (do-mi-fa-sol-la-đo, dây oán) thêm vào những tiếng luyến láy, tiếng đệm làm cho làn điệu thêm phong phú, và tiết tấu thường là nhịp đôi (2/4 hay 4/4).
Người dân miền Nam đặt tên cho các điệu lý dựa trên tên thú vật (Lý con mèo, Lý khỉ đột, Lý con nhái, Lý con cua, Lý con sáo, Lý con quạ, Lý con nhạn, Lý con kiến, Lý con thằn lằn, Lý chim khuyên, Lý con trâu, Lý con cúm núm, Lý chuồn chuồn, Lý ngựa ô, Lý quạ kêu, vv...), tên cây cỏ (Lý bông sen, Lý bông lựu, Lý cây khế, Lý bắp non, Lý bụi chuối, Lý lựu lê, Lý cây chanh, Lý mù u) , tên các món ăn (Lý bánh ít, Lý bánh canh, Lý dĩa bánh bò, Lý ăn giỗ, Lý bánh tráng - có lẽ người miền Nam thích ăn uống), hay tên phong cảnh (Lý cảnh chùa, Lý quán rượu)...(sưu tầm)
Lý Nam bộ không chỉ phong phú về số lượng mà cả về đề tài, nội dung cũng như đặc tính âm nhạc. Lý Nam bộ đề cập đến các sinh hoạt, các công việc và tâm trạng, tâm hồn của người dân. Lý còn đề cập đến các loài vật, các loại cây, các thứ hoa trái, nói về tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. Có những bài ca nói lên những ước mơ của người dân bình thường, hoặc phê phán châm biếm những cảnh chướng tai gai mắt. Lý Nam bộ thực sự là một thể loại phản ánh cuộc sống, cách suy nghĩ và tính cách của người Việt ở Nam bộ.
Mặc dầu ở Lý Nam bộ có đủ mọi sắc thái nhưng có lẽ những nét buồn là sâu đậm hơn, đồng thời lại hồn nhiên mộc mạc và hóm hỉnh ngộ nghĩnh.
Download tuyển tập một số bài Lý Nam Bộ & Việt Nam:
Để xem cần có Adobe Acrobat Reader: