(Lý thương nhau)
Hoặc điệu "lí năm canh" diễn tả nỗi lòng nhớ nhưng chờ đợi, âu lo:
Những bài hát nói đến tình vợ chồng thường đượm vẻ buồn sâu xa thầm kín khác với những bài hát khắc họa tình yêu trai gái hồn nhiên như Lí xăm xăn, Lí cây bông.
Những bài Lý ở miền Nam có đặc điểm là ngắn gọn, mỗi bài chỉ có một lời, giai điệu có những quãng nhảy xa tạo nên sắc thái sâu lắng trầm mặc hơn so với các miền khác (nhất là ở những nốt bán âm giàu tính chất thương cảm). Phần lớn những bài hát đều mang phong cách ca xướng, Lý chiều chiều là mựt trong những bài hát giao duyên tự sự hay nhất trong kho tàng dân ca miền Nam với những câu hát mộc mạc đằm thắm.
Và, ai mà không chạnh lòng xao xuyến khi nghe những câu hát thắm đượm ân tình của Lý vọng phu. Âm điệu từ khúc hát vang chứa đựng bao nhiên uẩn khúc của người vợ trông chồng suốt những năm tháng biệt ly cách trở.
Nỗi đau chất chứa đến nỗi bật ra câu hát:
Cùng lới Lí vọng phu làn điệu Lí tàng tít cũng xuất hiện nhiều trên sân khấu tuồng và dân ca kịch bài chòi của những tỉnh miền Trung. Có người cho rằng hai điệu lí ấy được hình thành từ sân khấu truyền thống khu V (Lập luận này thiếu sức thuyết phục vì sân khấu thuộc loại hình nghệ thuật sinh sau đẻ muộn). Có thể những âm điệu này sẵn trong dân gian và sau đó được các tác giả đưa vào sân khấu với những biến dạng cần thiết để phù hợp với nội dung kịch bản, chẳng hạn:
Tuy vậy phần gốc của câu hát vẫn được giữ nguyên vẹn:
Chính vì nắm được thanh âm đặc trưng của làn điệu này mà nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đã vận dụng một cách tài tình khi sáng tác ca khúc nổi tiếng "Quảng Nam yêu thương". Bên cạnh những điệu lí ngân nga như khúc tâm tình của người dân miền Trung còn có nhiều điệu lí âm điệu sinh động, tiết tấu sôi nổi, khắc họa rõ nét những sinh hoạt đời thường. Lí đi chợ dí dỏm, hồn nhiên miêu tả cảnh bán mua:
Hoặc nhịp điệu dập dồn trong Lí thương:
Lí ngựa ô có mặt trên khắp ba miền Bắc - Trung - Nam, nhưng tại Quảng Nam làn điệu này có những nét riêng, kín đáo, sâu sắc.
Mỗi làn điệu của lí có phong vị độc đáo, có dáng dấp riêng, rất súc tích và khá uyển chuyển trong sự thể hiện nội dung. Từ các câu ca dao quen thuộc, ông cha ta đã phá vỡ tiết điệu sẵn có của thể thơ sáu tám bằng cách xử lý tài tình hệ thống tiếng đệm, tiếng láy đưa hơi với phong cách điệp từ í a, tình tang, là, mà, trông... để ngâm ngợi thêm tô đậm thêm những chỗ nhấn giàu màu sắc cho làn điệu và làm đa dạng thêm cảm xúc của người hát.
Chúng ta cũng có thể nhận thấy càng vào phía Nam, các làn điệu dân ca càng có xu hướng bổ sung thêm dạng thang âm có bán cung. Đó là điệu thức oán, dần dà trở thành dạng đặc thù trong ca nhạc truyền thống các tỉnh phía Nam. Các điệu lí cũng vận dụng hầu hết dạng thang âm điệu thức dân tộc, chính vì thế mỗi làn điệu đều có sức hấp dẫn riêng của nó để có thể lưu truyền từ đời này sang đời khác, dù có thay đổi chút ít nhưng vẫn giữ được trực âm chính trong hệ thống ngũ cung nguyên bản, nhờ vậy người nghe khó nhầm lẫn giữa điệu lí của vùng này với vùng khác. Như mạch nước ngầm, những điệu hát lí có sức lan tỏa rộng khắp trong nhân dân và trở thành những viên ngọc quý trong kho tàng dân ca Việt Nam.